Trần Đức Thảo,
nhà triết học bị về vườn vì Nhân văn - Giai phẩm, một hôm bỗng được
Nguyễn Đức Bình, thư ký của Lê Duẩn đánh xe đến đón lên gặp Tổng bí thư.
Xảy một chuyện không ai nghĩ ra nổi. Chính Thảo kể nó cho Phan Thế Vấn, Gia Lộc trước rồi sau cho tôi nghe.
Phòng
khách nhà 8 Hoàng Diệu, chỉ ba người: chủ nhà Duẩn, Bình và Thảo. Bình
vào đầu nói hôm nay Tổng bí thư mời giáo sư đến để nghe Tổng bí thư
trình bày một đề cương về vấn đề con người rồi sau đó xin mời giáo sư
góp ý kiến.
Duẩn trình bày. Được
ba phút, Bình nhắc Thảo chú ý ghi. Ở Việt Nam nghe thủ trưởng mà hí húi
ghi là dấu hiệu trung thành tuyệt đối nhưng Thảo lại ngồi im. Lát sau,
Bình đẩy giấy và bút đến cho Thảo, hy vọng có cơ sở vật chất trước mặt
thì thượng tầng kiến trúc của Thảo sẽ hoạt động. Duẩn tiếp tục trình bày
và Thảo tiếp tục ngồi nghe không động đậy.
Duẩn nói hết, Bình lên tiếng:
- Tổng bí thư đã nói xong, xin giáo sư góp ý kiến!
Ngơ ngác một lát, Thảo nói:
- Tôi không hiểu gì cả.
Thảo
vừa dứt lời, thoắt một cái rất nhanh Duẩn đã nhào đến đằng sau anh,
quàng hai tay vào ngực anh rồi liên tiếp xốc lên dội xuống anh mấy đận,
đoạn buông thịch một cái xuống, bỏ vào trong nhà.
Bình nhăn nhó đến trước Thảo trách:
- Tổng bí thư nói mà lại bảo không hiểu gì cả thì lạ thật!
Rồi
cũng bỏ vào theo chủ nhân nốt. Lớ xớ tìm mãi không thấy lối ra, cuối
cùng Thảo đành nhờ gia nhân nhà dưới chỉ cho đâu là cổng. Lại lớ xớ rẽ
ngược về Quan Thánh, cuốc bộ một quãng xa mới vớ được một xích lô chuyên
chở đá cây cho mậu dịch không có ghế, phải ngồi mớm vào mép thùng xe.
Hồi ấy người chân chính không ai leo xích lô mà bóc lột lao động.
Tôi đùa bảo Thảo:
-
Thật đúng là được hôm vua vời ôm bế thì gặp phải ngày thất kinh. May mà
vua nói vấn đề con người chứ nếu nói vấn đề con vật thì không biết hôm
ấy anh sẽ còn lạc đến tận đâu.
Thảo tủm tỉm cười.
Vấn đã hỏi Thảo:
- Tại sao anh không hiểu?
- Khái niệm không chuẩn gì cả.
- Duẩn là Mác-xít cơ mà?
- Ở ta chỉ có Trường Chinh hiểu được chủ nghĩa Mác chứ Duẩn thì không. - Thảo lắc đầu quầy quậy.
Với tôi, anh còn thì thào vào tai:
-
Duẩn tu đạo Cao Đài đã đạt tới chỗ nhìn được thấy các vị thần sở tại
tức là cao cấp rồi đấy… Chắc chắn đúng mà… Làm sao Duẩn lại Mác-xít
được?
Qua những lần anh nói về Lê
Duẩn, tôi thấy anh kỵ nhất ông này ở chỗ mà anh cho là nhập nhèm về
triết. Theo anh, Lê Đức Thọ, người của bộ máy, giảo quyệt, gian ngoan,
tà tâm làm Tổng bí thư, còn hơn Duẩn tà đạo nhận xằng là Mác-xít.
Thọ
không bao giờ vỗ ngực ta thạo chủ nghĩa, chỗ ấy khác Duẩn và cái đó,
theo Thảo, còn khả dĩ. “Duẩn đã tu đạo Cao Đài rồi mà…”, tôi vẫn thấy
một cái gì ghê sợ đằng sau câu này của anh.
Tôi quen Thảo qua Vấn và Gia Lộc. Mới đầu anh nghi tôi ở trong cái brain trust,
chữ Thảo đặt ra để chỉ những người làm quân sư cho Duẩn dưới trướng
Hoàng Tùng. Anh có một ám ảnh bệnh hoạn tâm thần về công an: họ
nhan nhản quanh anh và rình rập theo dõi anh ngày đêm rất ngặt. Chúng tôi đùa gọi căn bệnh này là flicomanie, cá khủng,
sợ công an. Một sáng đến Đào Duy Anh xong, tôi sang Thảo theo hẹn. Hai
anh chiếm hai đầu cái hành lang chạy hết chiều ngang tầng ba toà nhà B6
Kim Liên. Tôi gõ cửa. Nghe ngóng. Lại gõ. Cứ im. Chắc đã quen nết, Đào
Duy Anh vẫn chờ ở cửa buồng anh lúc ấy gọi tôi bảo:
- Xướng danh lên!
Tôi xướng danh rồi nhờ có Anh chứng kiến nên tôi ghé mắt nhìn qua khe ván cửa.
Trong
kia, cách chừng ba bước, Thảo đang đứng lom khom nhìn ra cửa, hai tay
hơi giơ lên nửa như muốn mở nửa như thủ thân. Gian phòng ngoài khá rộng,
không đồ đạc, sàn la liệt sách báo. Tôi chợt chứng kiến một homo erectus
- người đứng thẳng trong thời kỳ bắt đầu tập đi hai chân trên lớp lá
rừng rụng đầy đất. Nó mới thật ngược lại cái dáng đứng Bến Tre, cái dáng
đứng mà một lần tôi bảo Vũ Cận, Tổng biên tập một tạp chí tiếng Pháp là
nên dịch nó thế nào. À, cứ dịch sao ra cái dáng ông đếch sợ mày ông
oánh mày đây là được, Cận nói, nhưng tuyệt đối không position debout, kẻo Tây họ tưởng là ta chỉ đề cao có mỗi kiểu…
Thảo dắt tôi bước lên sách báo ngổn ngang ra đầu hồi chỉ xuống bãi đất bên dưới:
- Chúng nó đấy! - Anh thì thào.
Một lũ trẻ đang đánh bi ở đó.
Tôi
chợt nhớ lại năm 1951, Thảo mới về nước, cả căn cứ địa bàn tán - bàn
đến cả cái túi ngủ kín bưng đêm đêm anh rúc vào. Đều phục chuyện ngày
sang họp Hội nghị Fontainebleau, Phạm Văn Đồng đã “tam cố Thảo lư” vận
động Thảo về nước. Tính lại đận “cầu hiền” ấy thì cầu nay qua rồi đã rút
ván còn hiền thì hoá thành ác! Tôi đưa anh về để anh nghe tôi chứ đâu
để cãi lại tôi!
Thảo có cách viết
đặc biệt. Nằm. Nằm nghiêng. Và đầu không gối lên bất cứ một thứ gì. Một
bảng học trò, một tập giấy học trò kẹp vào đó và thế là nằm viết. Một
lần cùng Vấn đến phòng cấp cứu đặc biệt mà Tôn Thất Tùng dành cho Thảo ở
Bệnh viện Việt Đức, thấy anh đang nằm viết như thế, tôi đến nắn nắn cổ
anh:
- Thảo nào Thảo cứng đầu cứng cổ. Đây là Dáng Nằm Bến Cỏ, đối lại với Dáng Đứng Bến Tre đây mà.
- Tại sao anh toàn viết tiếng Pháp? - một lần tôi hỏi.
- Tiếng Việt chúng mình chưa có đủ khái niệm triết.
Anh
có một quyển Hiện tượng luận về Tinh thần của Hegel, nguyên văn tiếng
Đức, bìa cứng, xuất bản đã lâu, vật theo anh từ Pháp về căn cứ địa Việt
Bắc dạo nào. Ở lề các trang sách chi chít những ghi chú tiếng Đức, hoặc
mầu xanh - phản bác, hoặc mầu đỏ - tán thành. Tôi nói có phim mầu chụp
hai trang sách này lên sẽ cho ra một bức hoạ ấn tượng chủ nghĩa rất đẹp.
Nhà xuất bản Sociale (Edition sociale) của Đảng cộng sản Pháp in Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức (nguyên
bản tiếng Pháp, 1973 - BT) của Thảo. Anh đưa tôi đọc thư Lucien Sève
phụ trách tư tưởng của đảng viết “cảm ơn mày đã gửi in sách, làm vẻ vang
cho nhà xuất bản chúng tao. Một nhà xuất bản bên Anh ngỏ ý xin bản
quyền nhưng tao biết mày chỉ chuyên tâm cho lợi ích giai cấp công nhân
cho nên tao đã từ chối”. Với nhuận bủt 8.000 đồng, anh mua một tủ lạnh.
Ba tháng sau phàn nàn hỏng rồi. Tại sao nhanh thế? - tôi hỏi.
“Thằng cháu mình nó cứ táy máy…”. Hỏi kỹ thì ra không phải.
Tại
anh. Anh dùng nó thay quạt, thứ anh không có. Mở nó ra, nằm nghiêng ghé
đầu vào trong nó mà viết miết. Mũ lá, xe đạp Peugeot Con vịt xanh lè
như Nguyên Hồng. Khác là đi guốc mộc quai ni lông giả nhung mầu nõn
chuối hay mã não. Và hai bàn chân trắng hồng, thứ không có ở Nguyên
Hồng.
Cuối những năm 80, Thảo vào
ở Sài Gòn. Khách sạn Bến Nghé, Thành uỷ cho tiền trọ còn ăn uống tự lo.
Ngày ngày anh thượng xích lô về nhà cô em gái họ ở đầu Lê Thánh Tông
gần Hai Bà Trưng, nấu cơm rồi lại xích lô chở người và cà mèn về khách
sạn. Tôi nhờ vợ con Ngô Y Linh - chị Liên và cháu Ý Minh, để anh đến nhà
gần đấy nấu nướng đỡ vất vả. Gia đình nhiều lần ngỏ ý nấu giúp nhưng
Thảo không nghe. Không muốn phiền. Vả, anh lo chăm sóc cái gan. Kiêng
khem quá kỹ. Liên, vợ Ngô Y Linh chỉ đi chợ, rửa rau làm thịt sạch sẽ
cho anh. Nhưng, Liên bảo tôi:
- Đến khi ăn cơm, mời anh ấy ra bàn, anh ấy cứ đứng ăn ngay ở cạnh bếp…
Một
hôm tôi và anh đi dạo, sáu giờ chiều. Liên Xô đang đổi mới mạnh. Quá
khứ tội lỗi đen ngòm hiện hết ra. Chống im lặng đáng sợ của Nguyễn Văn
Linh là một kiểu Việt Nam hoá khẩu hiệu glasnost, minh bạch. Vừa
đến ngã tư Lý Tự Trọng thì mưa ầm ầm như thác. Đường phố thoắt cái thành
sông cuồn cuộn. Chúng tôi ghé vào một hàng làm đầu, mượn hai ghế đẩu
ngồi ngay dưới mái hiên vừa chuyện vừa coi mưa, chân ngâm trong nước.
Một lúc tôi thò tay xuống moi lên hai chiếc dép da Thảo vẫn để nguyên ở
chân rồi cầm hộ. Thảo nói sẽ phê phán chủ nghĩa Stalin, nó làm hại phong
trào cộng sản vì nó xuyên tạc chủ nghĩa Marx. Lê Duẩn chính là trong
luồng ấy đấy. Anh cũng phải phê phán chủ nghĩa xét lại. Vì Khruschev, cả
Gorbachov và các anh nữa đều có tàn dư Stalin.
Tôi hơi tự ái. Mình bị nện đau bỏ bà đi mà ông bạn lại bảo là còn nặng chủ nghĩa Stalin! Tôi nói:
-
Được, cho rằng bọn tôi còn chủ nghĩa Stalin, được, thế nhưng tôi hỏi
anh, chúng tôi có là nạn nhân kinh hoàng của đàn áp kiểu Stalin và Mao
không? Thứ hai, chúng tôi đã có ngày nào cầm quyền mà gây hại chưa? Cho
chúng tôi vào một giọ với Xít, Mao, Lê Duẩn thì e anh khó mà được người
ta tán thành.
Thảo im. Tôi nhẹ
người, Ngoái lại: ba cô làm đầu nằm trên ghế hạ ngửa hết nấc, quần vén
cao, có lẽ tới cỡ mà Bộ văn hoá thông tin ngày nay cấm, mấy cặp đùi
trắng lốp co lên tận ngực khe khẽ hợp xướng Gọi nắng trên vai em gầy…
Lát sau, tạnh mưa, chúng tôi đi tiếp. Thảo nói sẽ cố hoàn thành hệ từ hội dành cho máy tính…
Một
sáng ngồi ở nhà Vấn, tôi nói muốn viết anh. Tôi nói sẽ viết hành trình
triết học của anh, tại sao thành người làm triết, những bước đi chủ yếu
trên đường nghiên cứu, những bài học lớn cho người làm triết, tại sao
chúng ta ít triết gia, ít chất triết.
Anh cảm động nhận lời. Anh từ lâu không còn coi tôi là trong cái tờ-rớt não của Lê Duẩn, không thành kiến tôi chỉ là inneisme - thuyết bẩm sinh. Tôi đã lỡ ca ngợi hết lời Con người được lập trình cũng như Konrad Lorenz.
Sáng hôm ấy, tôi hỏi anh tranh luận với Sartre ngày ở Pháp làm sao, Thảo nhăn mặt lại:
- Tranh luận nào?… Không có đâu. Tranh luận thế nào được với Sartre?
Thấy
rõ nét mặt ngượng nghịu của anh lúc bấy giờ. Chuyện là như thế này: lúc
ấy có một hội thảo trên sách báo của giới triết học, trong đó có một
của Thảo. Theo dự định, Sartre cũng có một tham luận - và tham luận ấy
đối lại với cái của Thảo chứ không phải có tổ chức hội thảo mặt đối mặt
với nhau- nhưng rồi không hiểu sao Sartre không tham luận nữa. Thảo nói
chắc ông ta thấy nhảy vào cuộc này chẳng đem lại danh giá gì hơn cho ông
ta.
Chuyện viết này chưa thành thì Thảo sang Pháp. Và chết.
Gia
Lộc lặng lẽ đưa tôi một tập ảnh tang lễ, một chân dung Thảo nhắm nghiền
hai mắt thanh thản giữa mấy cành hoa trắng. Tôi nghĩ giá như đừng bày
hoa.
Sau này người ta làm tang vớt cho anh ở trong nước, đem anh chôn ở Văn Điển. Một trí thức bảo tôi sao lại không để ở Mai Dịch? Tôi nói: Văn Điển hơn. Về chữ hay hơn Mai Dịch. Văn là văn hoá, lễ tiết, nghi thức. Điển là phép tắc, tiêu chuẩn. Phép
tắc của văn hoá, lễ nghi. Hơn Mai Dịch vốn có cái nghĩa là nơi chôn nha
dịch hay nơi làm dịch vụ đào huyệt. Thảo có làm quan hay đào bới gì đâu
mà vào đó? Còn dân không thạo chữ nghĩa thì lại hiểu mách qué ra là nơi
ngày mai phải dịch đi nơi khác.
Thế với dịch trong ôn dịch thì…?
-
Dạ, tôi không biết chữ ấy…, - tôi nói. À, nhân đây nên biết cụ Tả Ao có
để lại một câu là “Bất hạ Mai Dịch kỳ”, không đánh cờ làng Mai Dịch.
Chắc là bịp giỏi?
Nhân chuyện hoang tưởng của Thảo, tôi nói tới hoang tưởng của Nguyễn Sáng. Nói vì cả hai đều tiêu biểu được cho bệnh cá khủng - chuyên thấy mình bị công an đe doạ.
Một hôm Sáng rất quan trọng bảo khẽ tôi:
-
Tao nói mày nghe…, tao vừa vượt qua được một thử thách gay go hết sức.
Thế này… Chúng nó… (thấy vẻ tôi như hỏi ai vậy, anh nhìn tôi hơi lâu) Là
công an chứ ai? Kéo mình đến một cái phòng tối om, kín bịt bùng. Thình
lình đèn bật sáng quắc. Một luồng, một chùm ánh đèn chói lọi chiếu thẳng
vào mắt tao thế này, ừ, mạnh tưởng như nó đấm vào ngay giữa mặt mình ấy
chứ. Đằng sau đó ba bốn bóng người. Nói: - Hỏi đây…, phải trả lời trong
vòng ba phút. Không trả lời được thì vào tù, nhà sát bên đây, không
phải đi xa. Còn nếu trả lời tốt, giúp ích được cho nghiên cứu của Nhà
nước thì sẽ được phong giáo sư. Tại sao lại hỏi anh? Vì anh vẽ không
đúng. Không đúng sự vật khách quan, nói theo triết học là xuyên tạc bản
chất sự vật, làm hư hỏng nhận thức luận của chủ nghĩa Mác. Nhưng thôi,
nghe đây! Chiến tranh thế giới thứ ba nổ ra thì đánh nhau bằng gì?… Nào,
trả lời! Tao vừa nghĩ câu trả lời vừa nhận định đây là Bắc Kinh nó
thông qua công an Hà Nội hỏi. Để nó đánh Mỹ mà. Thế là đáp luôn tắp lự:
đánh nhau bằng bụi nguyên tử! Đèn bật sáng, ba đứa đội mũ phớt giống như
cái mũ tao vẫn đội ấy đi đến bắt tay tao: “Xứng đáng giáo sư…, hoạ sĩ
giỏi lắm”. Đó là nhờ hằng ngày vẫn phải lọc sạch bụi của ánh sáng đi mà
vẽ đấy, - tớ nói.
Ít lâu sau, anh bảo tôi:
-
Hôm nào tao bảo mày chúng nó phong tao làm giáo sư nhưng mày biết
không, chúng nó vẫn bám theo tao. Trước cửa nhà tao, 67 Nguyễn Thái Học,
vẫn có hai đứa cải trang làm đàn bà xấu xí ngồi với bốn cái sọt đựng
mấy nải chuối chứ còn phủ toàn là lá chuối. Để làm gì? Để che đi mấy cái
micro rất bự chĩa thẳng vào buồng tao nghe trộm…
Một
tối khuya, mưa lất phất, Sáng và tôi đi trên hè trước Toà án nhân dân
Thành phố. Sáng mặc áo gió đen loang loáng ướt, ánh đèn hắt vào tôi lại
ngỡ có những hàng răng trắng nhe ra cười, hai vạt áo dài vung vẩy vui vẻ
(tôi để ý mới thấy thì ra hai tay Sáng đút trong hai túi là động lực
ngầm của sự vung vẩy vui vẻ kia…, Sáng cười khoái trí bảo tôi:
-
Tao báo mày tin mừng đây…, tao khỏi điên rồi. Công an dạo nào nghe trộm
tao chính là mấy mẹ bán chuối thật, hôm nọ tao vờ mặc cả, lật cả sọt ra
thì không có máy gì hết… Rồi dạo này tao vẽ không có đứa đứng bên xui
nữa. Một hồi tao vẽ là nó cứ bảo dài, dài nữa, dài nữa, có khi bút quệt
cả ra ngoài toan… Rồi nó lại bảo ngắn, ngắn, ngắn nữa vào… Mà tao cứ
nghe. Một hồi lại thế này. Khuya tao đang đọc sách bỗng thấy trên giường
có tiếng người vật nhau cười rúc rích. Tao ra vén màn lên. Mày biết thế
nào không? Lê Duẩn chơi gái. Tao ôn tồn nhưng mà nghiêm nghị nói thưa
ông, ông có nhà có cửa đàng hoàng sao lại phải đến nhà tôi, công an khu
vực họ đến khám nhà thì tôi khai quan hệ của tôi với ông như thế nào
đây, quan hệ với cô gái thế nào đây… Bỏ đi, Duẩn còn cúi chào. Tưởng yên
ai hay lát sau lại tiếp dĩễn. Lần này mở màn thì là Phạm Văn Đồng. Tao
cáu quá, chỉ tay ra cửa buồng: “Ra khỏi đây ngay! Gần nửa đêm sắp đi ngủ
thì lại vật lộn như thế”. Lần này là thằng Hoa em tao. Nó bảo có cái
bãi tốt thế này cho em ruột mượn mà cũng ky? Nay tao khỏi điên rồi mày
bảo có hay không?
Chiến tranh
chấm dứt, tôi nghe người trong Nam đầu tiên khóc người thân chết trong
thời gian xa cách hai miền là Sáng. Sáng ấy, tôi ngồi nghe anh nức nở
khóc, thảm thiết khóc đến nửa giờ, lá thư người nhà mở trên tay cứ vật
vã theo đà người anh rũ rượi. Trong gian phòng dài hẹp như cái toa tàu
bé nhỏ của anh. Má tao chết rồi… Giải phóng thì chết… Tao không được
chôn cất má, tao thương má tao lắm, tao muốn chết mày ơi… Sao má lại
không muốn cho con gặp lại mặt?
Anh
khóc hồn nhiên, chân thành như một đứa trẻ. Tôi bỗng thấy cái tình của
anh với mẹ có lẽ sâu đậm hơn tôi. Khi nghe tin mẹ tôi chết trong Hà Nội,
năm 1951, tôi đang ở huyện Lâm Thao sống thực tế một năm, (Hà Xuân
Trường thì lên Hạ Hoà, theo kế hoạch rèn luyện lực lượng trẻ của Tố Hữu
lúc đó về làm Tổng biên tập báo Nhân Dân ra hàng ngày sau Đại hội 2 của
đảng). Tôi ra gian trái ngôi nhà gỗ làm trụ sở Đoàn thanh niên, một mình
ngồi trên càng cối xay thóc nhìn mưa tầm tã trên các tàu lá cọ mà khóc
thương mẹ. Khóc lâu. Khóc không muốn đứng lên nữa, tưởng chừng cứ thế
này ngồi hết ngày này qua ngày khác thì sẽ chuộc lại được tội đã xa vắng
mẹ…
Thời kỳ này chẳng hiểu sao
Sáng lại không “xài” được Nguyễn Tuân, người mà anh vẽ cho chân dung ở
trên một đĩa sơn mài. Mặt Tuân như một cánh diều tủm tỉm cười bập bềnh
giữa mấy cành dong nước. Anh bảo tôi:
-
Tớ cảnh cáo nó rồi. Tớ sẽ không bao giờ thèm đến nhà nó nữa. Cảnh cáo
cả nó rằng thằng cầm bút mà không viết được tiểu thuyết thì đừng có mà
nhận là nhà văn, như thằng cầm panhxô (cọ) ấy, không vẽ sơn dầu thì đừng có nhận là làm panhtuya (hội hoạ)
Trong
Sài Gòn, cuối những năm 80, ngoài những lần la cà ngoài phố, Sáng hay
kéo tôi đến nhà Hoa, em trai anh ở đường Yên Đổ, nơi anh ở nhờ đấy. Rượu
suông. May ô, quần pi-gia-ma cháo lòng, mũ mỏ vịt mầu xanh bạc hà bạc
phếch và đôi dép Thái Lan đã nhão bét hết cả đế, nó vểnh lên thành một
đường gờ nhẵn thín ôm gọn lấy hai bàn chân thô to của Sáng. “Mày ngồi
đây, tao ra mua cái gì hả”. Lát sau về, hai điếu “ba số” và hai quả xoài
xanh trên tay…
Lần cuối cùng,
sau đó cả mười năm tôi không vào Sài Gòn, hai chúng tôi chia tay nhau
gần Cầu Bông. Vừa đi con đường bên dưới Cầu Sắt leo lên mặt Cầu Bông,
tôi phảỉ rẽ về Võ Thị Sáu, Sáng khoát tay chỉ về phía bên kia sông Nhiêu
Lộc:
- Mai tao đến nhà bà chị tao cho tao ở cái xóm rìa sông kia, trông lên cầu này, đấy… Ở đấy tao vẽ tốt lắm.
Cái
bờ con kênh Nhiêu Lộc Cầu Bông anh chỉ tôi bữa đó, chỗ gần Miếu Nổi,
bây giờ thành con kè xi măng phẳng lì với những ghế bàn cà phê trời. Bây
giờ qua cầu này tôi thường nhìn về phía đó đoán ra cái xưởng vẽ cuối
cùng của anh nó nằm ở quãng nào. Hay là bị mất vào chung cư Miếu Nổi có
Tô Hải sống ở đó rồi. Và gần như chiều chiều đi ngang cổng trường Mỹ
thuật Gia Định, nơi cho anh vỡ lòng hội hoạ tôi lại nghĩ đến anh. Lại
thầm nói với anh: cậu chết rồi, Vạn Lịch mỗi khi có cái gì ngon nó đều
để lên bàn thờ cúng cậu đấy…
Tình
cờ sau khi chia tay Sáng, tôi gặp Lưu Công Nhân ở ngay Dakao. Kéo tôi
đi chơi, ngồi chung cái Solex mà Nhân chỉ cho nổ máy khi lên dốc cầu.
Nhân bảo tôi bữa ấy:
- Cậu lẽ ra phải có cái ống tre ở tay…
- Sao thế?- Tôi hỏi.
Nhân nói:
-
Đi rừng người ta vẫn đeo hai ống tre ở hai cánh tay. Bị đười ươi nó bắt
thì lúc nó sướng nó cười là mình rút tay mình chạy. Sống với cộng sản
ông không được thật thà mà. Ông bảo Đặng Tiểu Bình có giỏi không? Nhờ có
nhiều cái ống tre đeo vào tay đấy…
Sau
này khi nhớ tới lần chia tay cuối cùng với Sáng thế nào tôi cũng nghĩ
tới cái ống tre lừa đười ươi của Lưu Công Nhân vì hai việc tiếp liền
nhau…
Lạ là nhiều khi nhìn Sáng nghiêng gò má cười, tôi cứ hay nghĩ đến truyện Cuồng trăng (Mal de lune)
của Pirandello. Và nghĩ tới sớm hơn nữa, một đêm trăng sáng kinh người ở
giữa chợ Thất Khê vắng ngắt, đêm thứ hai sau giải phóng, tháng 10 năm
1950. Cả khu chợ lô xô quán ngói chỉ có hai chúng tôi.
Bạt đã rải xong, Sáng quẳng ba lô lại bảo tôi:
- Mày coi cho tao, tao vào phố xem có điếm không. Vùng địch hay có đấy. Lâu lắm không nhìn thấy nuy rồi…
Lát sau quay lại, cười độ lượng với chính cái chưng hửng của mình, anh bảo tôi:
-
Toàn lính đi tuần mà dân thì không ai biết tiếng Kinh. Họ sợ chúng mình
mày ạ… Tao gõ cửa mà có nhà họ ôm lấy nhau run lên cầm cập.
Đêm
ấy, hai đứa ngủ chợ. Mở mắt ra thấy sợ; tôi đã sa vào một trận mai phục
êm ả ở quy mô vũ trụ: không gian đang cho diễn ra một cuộc loãng hoá
toàn bộ ghê rợn. Ngủ quên đi, Sáng và tôi chắc chắn sẽ hoá ra thành hai
vũng nước trăng lênh láng…
Cuối
năm 1972, lúc bom dữ nhất, Nguyễn Tuân “chạy” đến ở nhờ phòng thường
trực (có hai gian trong ngoài) của Hội liên hiệp văn học nghệ thuật, 51
Trần Hưng Đạo. Một sáng lạnh rất đẹp, tôi đến. Thì thấy Tuân, Tô Hoài,
Nguyên Hồng đang rượu suông trong gian phòng cạnh phòng thường trực chỉ
có mỗi cái giường xếp (đồ viện trợ của Liên Xô cho chín tỉnh bị lụt năm
trước) của Nguyễn Tuân. Tuân và Hồng gác hai bên cửa, Tô Hoài quay lưng
vào tường trong nhìn ra.
Thấy tôi Tô Hoài, Nguyên Hồng như hoạt hẳn lên: có thêm người thì sẽ bớt bị Tuân cà khịa. Nhưng Tuân đã tay trên:
-
Này, - anh bảo tôi - Nguyên Hồng nó nói nó viết hồi ký trung thực lắm,
ông đọc chưa? Nó ăn thủng nồi đồng nhà thằng Chu Ngọc ở Hàng Đồng ngày
xưa thế nhưng lại chỉ viết số nhà và tên phố, không dám nhắc đến tên
thằng Chu Ngọc. Lại viết là được nhân dân lao động lăng xê lên! Con sen,
thằng ở, anh xe nào đọc Ngày thơ ấu với Bỉ Vỏ hồi ấy mà lăng xê lên? Sao không nói thẳng ra là Tự lực Văn đoàn?
Nguyên Hồng đập đập tay tôi:
- Này, Trần Đĩnh, tớ lại vừa làm một bài thơ tình, tớ đọc cho nghe rồi tí nữa đưa về cho thằng Thép Mới hộ nhé.
Nguyên Hồng đọc được hai câu thì Nguyễn Tuân giật giật tay tôi:
- Nghe thơ tình luỷ làm gì? Luỷ tay chìa tiền tay tụt yếm…
Nguyên Hồng bậm môi lại, vểnh râu lên quay ra sân. Tô Hoài ngồi tẩn mẩn tước cho kỳ hết các sơ trên múi quít khẽ nói:
- Thôi, nói chuyện viết làm gì.
Nguyễn
Tuân quay phắt lại, chống hai quả đấm lên hai đùi xếp bằng tròn, hớn hở
như vớ được trúng đối tượng từ nãy cứ trốn mãi đấu tố:
- A, nói kinh tế thì dốt, nói chính trị thì sợ, nói viết cũng không nốt thì nói cái gì? Nói chuyện dế vậy nhớ?
Tuân đưa mắt đảo quanh, má đỏ bóng. Mắt kính nhìn tôi loa loá lên một cái cười đang rung rinh ra cả đẩu ria.
Vừa lúc Nguyễn Cao Luyện thò đầu vào reo lên:
- Kìa, Trần Đĩnh.
Nhưng
Tuân đã quay mặt vào. Luyện bỏ đi tức thì. (Đến nhà Phan Kế An sau đó,
Luyện phàn nàn mình thấy Trần Đĩnh thì vào xem nó có tin gì đàm phán ở
Paris không thế mà thằng Tuân hỗn quá, ngoảnh mặt đi…)
Mấy hôm sau Tuân cười bảo tôi, hôm nọ mình đùa thế mà Nguyên Hồng nó giận, mình chào nó vờ không thấy.
Tôi
không muốn bảo Tuân rằng mới hôm qua Nguyên Hồng đến báo đưa bài thơ
tình đã rủ tôi ra Gốc Liễu. Vừa lấy bia xong, anh hỏi luôn:
-
Cậu có biết trước Cách mạng tháng Tám, Tuân có năm đứa bạn thân nhất là
ai không? Là Lương Đức Thiệp, tờ-rốt-kít bị ta bắn, hai là Tchya Đái
Đức Tuấn cũng ta thịt, ba là Đoàn Phú Tứ, bốn là Vũ Hoàng Chương, năm là
Lưu Trọng Lư. Khi Tuân bị Tây phát vãng đi căng vì tình nghi Đại Việt,
Thiệp tặng Tuân một bài thơ làm toàn bằng đầu đề những cái Tuân đã viết.
Mày có thấy Tuân hé răng nói về những người này bao giờ không? Mà Tuân
rồi rất ghét Đoàn Phú Tứ. Tứ không đảng viên, mãi mới được cho vào Hội
nhà văn. Hôm ấy chả lẽ tớ vạch lại Tuân? Vạch lại hắn thì tớ ra cái gì?
Thật sự tôi chỉ thấy thương các anh. “Đời là một đống cỏn con những bí mật”. Đã là bí mật thì giấu đi phỏng có làm sao?
Khổ
nỗi là cái đống đó anh phải cung khai ra để được chính trị hoá, ý hệ
hoá và nhất là hồ sơ hoá rồi nó sẽ quyết định đến vinh thân hay bại thân
của anh. Và một khi ruột gan phơi bày ra đã thành món thuế thân, đúng
hơn, một thế chấp cơ bản nộp cho tổ chức thì bên cạnh trò giấu giếm tất
cũng khó tránh được khoản tô vẽ và khoản đoạn tuyệt với quá khứ thối tha
hay những thằng bạn. Tình bạn sao bằng được tình đảng? Bạn có thể hại
nhau còn đảng thì chỉ có cứu vớt mình.
Trong
bữa bia đó, Nguyên Hồng còn nói anh đã hỏi Đoàn Phú Tứ tại sao tóc đen
nhánh mà râu bạc thì Tứ nói: “Tại cái nguyên lý thực vật thôi. Chỗ nào
mình bón phân tro nhiều thì xanh tươi, chỗ nào phân tro kém thì nó cằn
cỗi. Đầu tôi bón sách nhiều nên tóc tốt tươi còn mồm chả có cái gì bón
nên râu bạc”. Tứ còn báo trước đầu hắn rồi sẽ bạc hết đến nơi. Mình hỏi
vì sao thì hắn nói sách báo để đọc từ nay làm củi hết rồi, tem phiếu dầu
không đủ dùng cho hai bữa…
Tàn bia, Nguyên Hồng mới nói:
-
Tuân như có ý tị với tớ ở chỗ tớ xuất thân nghèo nên được chiếu cố. Thì
hỏi tớ nghèo nhưng đâu có được là chủ tịch Hội như nó. Mà nó đâu có bị
mất sổ gạo vì đi khỏi Hà Nội như tớ? Với lại sao không tự hỏi sao không tham gia Văn hoá cứu quốc?
Dĩ
nhiên tôi không kể lại với Tuân. Phải nói tôi mến Nguyên Hồng hơn. Anh
dễ bộc lộ mình hơn. Anh vào tôi từ lúc tôi còn thiếu niên. Và anh chả đã
cho tôi một nhận xét đáng quý sao? Mày là Tư Mã Thiên nói thật nên bị
họ thiến. Nhất là anh có thể ở ẩn, không danh tiếng… nhờ Nhà nước. Giống
Kim Lân.
Một hôm qua đầu hồ
Thuyền Quang, trước khu vực điện đài của Bộ công an, Nguyễn Tuân chỉ vào
hai kè xi măng chạy ra giữa hồ hỏi tôi có thấy hai cái kè kia không?
Cái bên này, đấy, thì bộ trưởng ngoại giao Ung Văn Khiêm bị Mao thò cẳng
sang đá đít ngồi câu, cái kia, đấy song song nhau đấy, thì đại sứ quan
năm tình báo toàn Đông Nam Á của Liên Xô Séc- ba-cốp ngồi câu. Bên này
hễ bộ trưởng về vườn vì lỡ theo Liên Xô đầu hàng Mỹ câu được con cá nào
là bên kia quan năm tình báo lại rót vốt-ca ra rồi ngả mũ, nâng cốc chúc
mừng từ xa. Chính đám an ninh theo dõi hai cha nói với tớ mà. Ở sứ quán
Liên Xô còn cái cậu Padolsky nữa mới ghê, gần như phó sứ ấy, mình vẫn
gọi hắn là “thằng giặc” mà, sục sạo lắm. Nhưng anh em bảo sứ quán Tàu là
đồng chí ruột của ta nên như cá trong nước còn sục sạo dữ hơn Nga Xô
nhiều.
Tôi không bảo Tuân chuyện
Võ Nguyên Giáp cũng sợ “thằng giặc” Padolsky. Một tối Giáp đến Phan Kế
An chơi. (Tôi vẫn ngồi chuyện với An trong khi Điện Biên, Hoà Bình, hai
con bé của Giáp lấy ký hoạ ở trên sàn, ngay dưới chân chúng tôi). Ai ngờ
tình cờ Padolsky đã đến trước. Cầu thang gỗ nhà An đến chỗ rẽ lên chiếu
giữa thì nhòm vào đúng phòng khách.
Thấy
“nước ngoài” (lúc ấy nước ngoài nguy hiểm hơn “nước lạ” sau này), Giáp
vội giật lùi, An chạy ra mời, Giáp dứt khoát kiếu. Tôi bảo An: “Ở
Điện
Biên, Giáp rất ngại cố vấn Trung Quốc, dặn Lê Trọng Nghĩa, Hoàng Đạo
Thuý cẩn thận, các cố vấn đang xét ngặt lý lịch anh em, kể cả tôi, nay
lui khỏi nhà mày lại vì sợ lọt tai mắt Trung Quốc là an ninh Hà Nội. Ai
ngờ anh hùng lại bị yểm dữ đến thế!”
Hè
năm ấy vào Sài Gòn, tôi hỏi Ung Văn Khiêm chuyện câu cá Tuân nói. Khiêm
cười bảo nào chỉ thế. Có lần Séc-ba-cốp mò đến tận sau lưng mình rót
hai li rượu bắt uống cạn. Có lẽ trêu an ninh ta. Sau đó an ninh mời mình
đến chất vấn lão nói những gì. Mình bảo, có mỗi độc đạo ông ta chặn mất
rồi, tôi không uống với ông ta thì làm gì? Nhảy xuống hồ à? Hồi ấy công
an ngày đêm bao vây nhà mình ở Cao Bá Quát, ai vào ra đều công khai ghi
sổ tay, cố cho trong nhà nhìn thấy.
Một trưa, theo lệ hàng ngày, tôi đưa Minh Việt bị cổ chướng nằm bệnh viện Việt Nam-Cuba dạo một vòng phố quanh đó.
Chợt
thấy Tuân đi với Nguyễn Văn Bổng ở trước nhà Trần Độ ra phía ga. Thấy
tôi, Tuân giơ can ngoắc sang. Tôi chỉ tay vào cái bụng to tướng của Minh
Việt lắc đầu. Tuân bèn kéo Bổng qua đường, bảo tôi:
-
Mình vừa đi Liên Xô về. Này, có cô phiên dịch tiếng Pháp đẹp đáo để là
đẹp. Trước khi mình lên Léningrad, mình đưa tiền cho cô ta bảo mua giúp
cho mười bông hồng đại đoá, cô ấy bảo không mua hoa chẵn, mình bảo thế
thì chín đi. Hôm sau cô trao hoa, mình nói tôi xin biếu cho một nhan sắc
là cô. Cô ta reo lên cảm ơn rồi nói cộng cả bạn trai tôi thì nhà tôi
vừa đúng chín người, khéo thế.
Chắc rượu đang ngà ngà, Tuân nhành mồm nói tiếp:
-
Sau đó, mình lên Léningrad. Giám đốc khách sạn gặp ngay, nói mười năm
trước đồng chí đã ở buồng 312 này, nay lại ở đúng đấy, đồng chí có thích
không? À, thế ra họ theo dõi ngặt đáo để mày ạ. Nghĩa là thằng nào sang
đấy chửi bố chửi mẹ họ lên họ ghi vào sổ theo dõi hết. Nhưng tao khác, je suis gentiment suivi
- tao được yêu mến theo dõi. Tưởng đùa đấy hả? Này, một dạo ai sang đó
cũng phải xổ ra một tràng lạp xường xúc xích Mao để trong nước còn cho
đi nữa mà mua xích xe với quạt tai voi, bàn là xét lại chứ. Đấy, một lần
Tố Hữu gặp mình giữa đại sứ quán đã kêu lên: “Ô hay, giáo điều, xét lại
gặp nhau ở tại sào huyệt xét lại kìa!”. Một dạo thừa thắng xông lên
lắm.
Nói xong, Tuân ngoắc can một cái chào rồi qua đường, sang đúng cửa nhà Trần Độ lúc ấy chưa “chống đảng” mới rẽ về phía ga.
Còn
một chuyện Tuân nói tôi cũng thích. Tuân đi với Tế Hanh thăm mộ
Tchekhov. Đặt cho ông nhà văn này một bông hồng trắng, còn một bông hồng
đỏ Tuân cầm tay, Tế Hanh bảo để cho ai? - Người này ông không thích
viếng thì thôi. Thế là cậu ta bảo tôi ra cổng chờ nhé. Còn mình đến đặt
bông hồng đó lên mộ Khruschev. Thầm bảo ông ta rằng giá như ông hiểu
thấu hơn bụng dạ các đồng chí ở Bộ chính trị…
Thế rồi Tuân khiếm lễ với tôi.
Muốn
tôi vượt rào những phân, lúa, lợn, Thép Mới bảo tôi phê bình Vũ Bằng
trong Sài Gòn viết kỷ niệm một năm bom Khâm Thiên gì mà chỉ thương xót
bóng ma những em Huệ, em Hồng, em Cúc xưa nào… Đưa in bài của tôi có tít
Tiếng chát tom át tiếng bom, Thép Mới thêm vào đúng hai chữ “che tàn” vào trong bài, không bảo tôi.
Tuân
không thích tôi đả cái thú chát tom, và nhất là đả Vũ Bằng rồi lại còn
“cạnh khóe” Tuân chuyên đi hát boóng chơi ké (che tàn), điều mà tôi
không biết. Tuân nói với Lửa Mới và mấy người:
- Tay này đang muốn chuộc tội đây.
Kể lại với tôi, Lửa Mới lắc đầu:
- Chơi với cha Tuân này như đi trên dây ấy mà. Thép Mới bảo tớ là nó cho hai chữ “che tàn” vào bài cậu để ghẹo Tuân tí ti.
Tôi không thanh minh với Tuân. Tôi biết mang tội danh lật đổ, chống đảng thì tôi khó mà giữ nguyên được dung mạo bạn bè.
Bao
nhiêu năm quen biết Tuân, tôi chưa bao giờ kể cho Tuân (cũng như Tô
Hoài, Kim Lân, Nguyễn Sáng, Trần Lưu Hậu…) nghe chút nào các tội nợ cùng
trừng phạt cụ thể đảng chụp vào tôi và gia đình tôi - bố vợ, vợ, Trần
Châu. Lỡ nghe Tchekov: Đừng luôn vạch cái nhọt ở mông mình ra kêu đau
với mọi người… Tôi biết với thành tích đi căng mà không được tính là
cách mạng, Tuân đã khoanh một vùng biên cấm vượt - để ngầm chia một mình
động từ sợ - trong “lĩnh vực chính trị”, lĩnh vực mà Gorki đã nói với
bố nhà thơ Nga Vladimir Pozner là “thối tha và dối trá”.
Không
thanh minh, tôi cũng không cho Tuân hay ngay sau bài báo đó, Côn,
chuyên viên Vụ bảo vệ đã đến báo nhắc Thép Mới và tôi là tôi không được
viết gì ngoài lúa lợn phân bèo.
-
Tao muốn để mày viết cái gì cho bõ bèn - Thép Mới bảo tôi - biết đâu
mày lại bị ngặt đến thế. Mà tao nghe đâu thằng Vũ Bằng là mình cài vào.
Khi
Tuân chết, tôi ở Sài Gòn. Diệp Minh Châu mời mấy người, bà Mộng Tuyết,
Trần Văn Giàu, Trịnh Công Sơn, Đỗ Hải, vài anh em và tôi. Truy điệu, ăn
uống ngay bên cạnh bức tượng đầu Tuân mà Châu vừa nặn xong. Xù xì một
mũi tàu gạt gió rẽ sóng. Như một khối nguyên sơ chưa qua cải tạo, xây
dựng.
Nhìn thần khí phơi phới của bức tượng, tôi chợt mơ hồ thấy có lẽ đây là cái coda
(đoạn kết bản nhạc) Tuân cần có để kết được đầy đặn con người. Nhạc
khúc Tuân nghe cứ thấy dang dở có lẽ vì thiếu nét cả quyết sóng gió này.
Sau đó nghe Lê Đạt nói hình như Tuân tự sát, tôi giật mình. Cái coda tôi chờ đợi nơi Tuân từ từ hiện lên rõ ở cuộc xông pha vào cõi chuộc lại mình không biết là thật hay đồn kia.
Trong
tối truy điệu ấy, bà Mộng Tuyết kể Nguyễn Tuân sau này gửi thư thường
ký Hàn Sĩ Đỏ vì Tuân rất thích cái tên mang ba yếu tố kẻ sĩ, nghèo và
cộng sản. Tôi bâng khuâng nghĩ: “Phải chăng Tuân nói cộng sản để thay
cho chữ hèn?”
Một sáng 1-1 đẹp
trời, “mừng năm mới may ra sẽ được mới thật”, Tuân hẹn tôi đi ăn sáng.
Hai đứa dắt xe tới trước cổng Nhà hát nhân dân, đúng chỗ Trần Dần tối
nào bảo tôi “con lừa này không ưa nặng” thì Tuân cúi xuống kẹp cái kẹp
mạ kền vào gấu quần ống sớ màu đen đã bạc và chỉ vào chiếc xe của anh
hỏi:
- Đố ông năm mới xe tôi mới ở chỗ nào?
Tôi
chăm chú nhìn. Vẫn cái khung Pháp bong hết sơn, vẫn đôi phanh Tây “ăn
như ngoạm chặt lấy đùi mình thế này”, vẫn đôi vành Tây Mavic, chiếc đĩa
và đôi pê-đan Durax… (“Phải toàn đế quốc phụ tùng thế này mới phục vụ
mình tốt được!” - Tuân từng bảo tôi).
Tôi nói không thấy gì mới cả.
-
Ông không làm chính trị được. - Tuân nói, lắc đầu leo lên xe. - Lẽ ra
liếc là phải thấy tôi sắp xếp nhân sự cho nó công phu như thế nào rồi.
Lốp bánh sau trọc sư cụ cho lên bánh trước, lốp bánh trước còn rãnh cho
tụt xuống bánh sau. Nâng cao năng lực cho bộ máy đến thế mà ông không
thấy!
Lên xe, Tuân nói tiếp:
-
Lại chuyện xe. Gần đây ông có thấy hệ xe Nhà nước có thêm gì mới
không?… À, một loạt chừng một chục chiếc xe ba bánh, thùng vuông kín mít
màu cổ vịt bóng nhoáng. Quan xa, không, kiêu xa đấy. Tôn Thất Tùng hắn
bảo là đi đường hễ thấy thằng ấy thì leo ngay lên cây không què chân có
ngày. Có mỗi nhiệm vụ sáng sáng chở gà sống thiến, giò chả, cá lươn, phó
mát, bơ, xúc xích… phóng thật nhanh đến nhà từng ông Bộ chính trị, quay
đít, lùi a-la-de, tuồn tú ụ vào, ăn hay không mặc kệ, tài đây bất biết. Vậy đi đường nhớ nhắm trước cây để leo lên đấy nhá…
Sáng
ấy, ăn mằn thắn ở nhà hàng quen Tuân, tại gần ngã tư Lý Thường Kiệt -
Quang Trung. Vào gian trong. Hai tràng kỷ tre. Một cửa sổ nhỏ có rèm
bằng vải màn trắng phe phẩy nhìn qua thấy nhà máy cơ điện bên kia đường,
một dãy tường dài của nó luôn có người - thường là các bà, các cô quang
gánh - dừng lại trật quần làm trận đái bõ bèn buổi sáng. Tuân lấy ra
chai Camus dẹt, bên dưới nhãn nó Tuân đề câu “Créer, c’est donner une forme à son destin” (Sáng tạo là cho số phận ta một hình thù) của Camus mà Tuân viết lại rồi đem dán vào. “Pas d’ Albert - không có Albert Camus, chỉ là Vân thôi”, - Tuân nói.
Tuân
vặn nắp chai. Cái nắp mầu vàng ngả đỏ đồng điếu có những hoạ tiết cành
lá đen li ti, kiểu trang trí cung điện, nhà thờ Tư-lạp-phu. Tuân rót
rượu vào nó đưa tôi:
- Ông uống bằng cái calice này
(cốc đựng rượu cúng) cho tôi… Anh mưu thuật với anh chân chất đều chẳng
ra gì. Anh mưu thuật thì mệt óc, anh chân chất thì mệt đời…
Rồi hơi cúi về đằng trước im lặng.
Một chuyện khá rồ của Tuân nên nhắc lại.
Tối
ấy, 16-2-1966, một thiếu tá không quân - tên Tưởng hay Tường, nhật ký
tôi mờ mất cái dấu - nói chuyện về không quân ở Hội văn nghệ 51 Trần
Hưng Đạo. Chê hết Mỹ, Liên Xô, chỉ còn Trung Quốc và ta nhất hết. Tên
lửa Liên Xô? Ồ, thứ pháo thăng thiên này Trung Quốc chơi từ lâu rồi mà.
Được cái là ông anh chúa hay run này cho ta tin về các chuyến Mỹ xuất
kích vào ta, bao nhiêu máy bay, số mấy, phi công nào ở máy bay nào, sở trường sở đoản từng đứa…
Ngồi hàng trên, Tuân quay lại nháy tôi, hai chúng tôi bỏ về. Mưa nặng hạt. Chúng tôi dắt xe lên tận cà phê Lương.
“Chán chả muốn leo lên xe”, - Tuân nói.
10 giờ đêm lại dắt xe đi về tận đầu ngõ vào Tuân. Bắt tay tôi, Tuân nói:
-
… Buồn nhỉ. Đi nghe mưa đêm dầm dề các con phố còn hơn nghe những tinh
hoa trí tuệ minh hoạ cho các nghị quyết mà rút lại chỉ có một vận động
duy nhất là ca ngợi đồng chí có nốt ruồi.
- Có thế đồng chí mới cho súng. C’est pas gratuit ces choses grondantes, - các của gầm thét ấy không dưng mà có.
***
Một
sáng vào Việt Xô khám bệnh, tôi gặp Tô Hoài nằm chữa thần kinh tim. Anh
cho hay một tên tuổi văn nghệ vừa bị cô nhân tình nộp Tố Hữu bức thư
cha này gửi cô nói (đại y) không gặp cô theo hẹn được vì lão cha cố bắt
lên nghe giảng đạo. Tô Hoài mở sắc lấy bức thư ra làm tin: “Tớ là bí thư
đảng uỷ nên xừ Lành đưa xuống để giải quyết. Cô nhân tình tức vì bị
chàng đưa vợ tới nhà giáo dục nên gửi nó cho cha cố Tô Lành!”.
Tôi cầm thư đọc…
Vừa lúc ấy, Chế Lan Viên đi vào. Anh bảo tôi:
- Này Trần Đĩnh, mình bị cái này lạ lắm. Ngọt với mặn bây giờ đếch phân biệt được.
Tô Hoài tưng tửng: - Ăn thử một thìa cứt mà không phân biệt được thì phải chữa thật.
Chế cười gật gật như nhận rằng Tô Hoài nói xác đáng quá.