Sau Đại hội đảng 1960, tôi về ban văn nghệ của báo, Như Phong chánh, tôi phó. Lúc ấy nguyên tắc nhân sự là lão thành cách mạng chánh, trẻ phó.
Chủ
nghĩa Lê-nin muôn năm của Trần Bá Đạt ăn khách quá. Chất nông dân ngả
như bỡn theo tư tưởng Mao. Đã có những tiếng chửi xét lại. Mới ngày nào
báo Nhân Dân thường đăng vài ba trang toàn văn các bài nói của
Khruschev. Những số báo ấy hết veo. Bài thu hoạch của Trường Chinh về
Đại hội XXII của Đảng cộng sản Liên Xô đăng liền mấy ngày.
Nhưng
có một vùng dạ con tăm tối đang âm ỉ thai nghén một ván bài sấp mặt
kinh hồn mà chúng tôi chẳng ai biết. Không hiểu sao hễ nghe nói đến xét
lại là tôi coi như bị ám chỉ rồi khó chịu. Có lẽ lòng đồng cảm của tôi
với phái hữu Trung Quốc cùng số phận thê thảm của họ đã thức dậy. Không ở
Trung Quốc, không thấm thía các luận điểm lẫm liệt của phái hữu để mở
mắt, tôi cũng rất có cơ trở thành một Trần Bá Đĩnh lật mặt viết các thứ
chửi bới xỏ xiên những kẻ thù mới hôm qua còn là đồng chí thắm thiết.
Khó
chịu đến nỗi một hôm làm việc với Trường Chinh, tôi hỏi anh hai điều.
Một, ở ta có xét lại không? Hai, anh đánh giá Tự Lực Văn Đoàn thế nào.
Anh cười nói:
- Ở ta đâu có xét lại.
- Thế Liên Xô? - tôi hỏi luôn.
- Ta và Liên Xô như nhau thì Liên Xô xét lại sao được?
Tôi
nghe mừng quá. Thì chính anh viết thu hoạch về Đại hội XXII của Liên Xô
cơ mà. Liên Xô đang trên đường dân chủ hoá, từ bỏ bạo lực cơ mà, cái
điều tôi khát khao sẽ có ở Việt Nam.
Vậy
là Trường Chinh không ở trong cái dạ con âm ỉ tăm tối trên kia. Và tôi
chỉ cần thế. Đâu biết vì không ở trong nó nên rồi anh phải chịu nó.
Anh khẳng định đóng góp to lớn của Tự Lực Văn Đoàn vào văn học Việt Nam:
-
Tôi viết văn được là nhờ ảnh hưởng của Tự Lực Văn Đoàn. Nhưng nó ra đời
sau thất bại chính trị của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Yên Bái và đã trở
thành cải lương, rời bỏ chính trị, chỉ hoạt động văn hoá như Nhà Ánh
Sáng và Tự Lực Văn Đoàn.
Buồn
cười, Huy Cận có bài thơ nói đến áo người yêu trên mắc mà rồi hễ thấy áo
của vợ tôi treo đâu là tôi lại nghĩ đến câu thơ Huy Cận…
Hà
Nội đang thưởng thức những “Nhật ký một ngày của Dionisevitch” của
Soljenytsyn, “Cây phong lan nhỏ”, “Người thày đầu tiên” của Aimatov. Tôi
không đọc. Ý để bảo với đám thích Mao biết rằng tôi đâu phải Liên Xô
thứ xịn như họ nói.
Nhưng những
phim “Số phận con người”, “Khi đàn sếu bay qua”, “Chín ngày một năm”,
“Bài ca người lính” và vở kịch “Câu chuyện Irkust” thì tôi phải xem và
cho bình trên báo, mừng cho điện ảnh Liên Xô nhờ Khruschev đã có bộ mặt
mới. Bộ văn hoá tổ chức cả cuộc thi xem phim nào được công chúng yêu
thích nhất (tôi đã phải cho thường xuyên đăng động thái hưởng ứng rầm rộ
cuộc thi). Nhưng một năm sau, lật một cái rất nhanh, tất cả đều bị phê
phán là phản động, xét lại, sợ chiến tranh và hoà bình chủ nghĩa.
Trông
nom việc văn nghệ trên báo Nhân Dân, hay nhận được ý chỉ đạo của Nguyễn
Chí Thanh, tôi biết anh chính là người tích cực phất cờ chống luồng gió
độc trong văn nghệ và đặc biệt nắm rất vững tình hình văn nghệ Trung
Quốc. Thanh có một câu ghê gớm:
- Kịch 'Câu chuyện Irkust' là cái chuyện gì mà ngất ngư hết cả lên với nhau thế? À, chuyện một thằng cộng sản mê một con điếm…
Phù Thăng chết lụn bại chỉ vì một câu viết nguyện vọng của con người là hoà bình mà Thanh cho là tuyên truyền sợ chiến tranh!
Những
quay phắt lại với hôm qua đã được xem như chiến thắng của chân lý cách
mạng. Chỉ một thời gian ngắn, bao nhiêu người phản lại chính bản thân.
Tôi bắt đầu nhận ra những bộ mặt xúm lại đẩy cỗ xe Nhất Trí. Người ta tự
bào chữa rằng người ta trung thành với cách mạng. Bố ráp, quỳ xuống thì
may lại được coi là đang vươn lên tầm cao mà cách mạng cần!
Chuẩn
bị đại hội văn nghệ lần thứ hai, Tố Hữu triệu tập vài chục nhà văn,
nghệ sĩ và nhà lý luận mở hội thảo dài ngày mấy vấn đề văn nghệ. Họp trù
bị với một ít anh em, Tố Hữu nói rất tiên phong:
-
Gần đây thấy chửi Lukacs nhiều lắm. Nhưng đọc chưa, bẻ được người ta
chưa? Chớ nên ỷ mình đa số. Không phải chân lý đều ở đa số đâu. Có khi
thiểu số là chân lý…
Tôi chưa hiểu thâm ý của Tố Hữu: Liên Xô đang đa số trong phe, Mao thiểu số nhưng này, đừng có tưởng đông thì là đúng đấy.
Còn
tôi lại thành kiến Bắc Kinh thờ hung thần bạo lực, chuyên giải quyết
mọi sự bằng bạo lực, đổ máu. Tôi đâu biết Lê Duẩn đang chuẩn bị rước tư
tưởng Mao Trạch Đông lên thành “tư tưởng Lê-nin của thời đại ba dòng
thác cách mạng”. Duẩn có suy tôn Mao thay Lê-nin thì Mao mới suy tôn
Duẩn thay Hồ Chí Minh.
Một vấn đề
được quan tâm: tính người. Có hay không có tính người? Vào thảo luận,
đa số ngả về không có tính người mà chỉ có tính giai cấp. Câu nói thường
được đưa ra làm nền cho quan điểm này là câu của Marx: con người là
tổng hoà các quan hệ xã hội. Căn cứ vào nó sổ toẹt luôn tính người.
Tôi
bực bội nghĩ : Chữ tổng hoà đã hầm bà làng béng hết các giai cấp lại
rồi mà còn cứ cãi không có tính người? Nhưng nếu nói ra thì tôi sẽ không
chống nổi một đa số áp đảo chỉ chực phê phán để chứng tỏ lòng trung
kiên với một cá nhân - Mao - mà người ta ngờ là bậc nhất cách mạng.
Nguyễn
Đức Quỳ, tên thật Đào Đình Huống, Thứ trưởng Bộ Văn hoá, từng làm đại
diện của ta ở Thái Lan, nói anh không có lý luận (tuy cùng với Đào Văn
Trường vốn là hai cây lý luận của đảng), chỉ nói cái cụ thể. Xem đội
tuyển Anh đá với đội tuyển Liên Xô ở Mát-xcơ-va nhưng bên nào đá hay đều
được reo ầm lên khen và trời mưa thì người xem tất cả, bất chấp Liên Xô
hay Ăng-lê đều thượng ô hay áo mưa vào. Tính người không ở đây thì là
cái tình gì? Quỳ nom vẻ hơi cáu.
Sáng
ấy Quỳ phát biểu tính người xong, thấy ngứa ngáy, tôi tham luận. Khẳng
định tính người. Tính giai cấp và tính người cùng tồn tại. Có lúc tính
giai cấp nhiều hơn, có lúc tính người nhiều hơn. Thí dụ thời cộng sản
nguyên thuỷ, tính người là chính chứ làm gì có tính giai cấp? Rồi mai
đây khi cộng sản văn minh cũng lại tính người là chính còn tính giai cấp
thì tiêu vong. Có điều tôi nhấn mạnh là cần chú ý trong khi giai cấp
bóc lột đang thống trị thì nó cũng có phần tích cực góp vào sự phát
triển tính người, không nên coi giai cấp thống trị chỉ đem lại cái xấu.
Nếu không có sự tích luỹ tiệm tiến của tính người qua các phương thức
sản xuất khác nhau nô lệ, phong kiến, tư bản thì làm sao có được vượt
phá về chất để đến chế độ cộng sản, tính người lại trở thành đơn nhất
nhưng văn minh, tiên tiến hơn tính người nguyên thuỷ.
Tôi nói xong, chủ tịch hội nghị Đặng Thai Mai đứng lên bắt tay:
- Cảm ơn Trần Đĩnh cho tôi hiểu thế nào là continuité historique - tính liên tục lịch sử.
Anh và tôi một dạo hay chuyện với nhau. Anh ghét Mao tưởng như sẵn sàng nôn oẹ. Tôi đã đưa anh Les questions fondamentales du Marxisme (Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác) của Plekhanov và nói:
-
Ông này ở trong Đệ nhị Quốc tế của Berstein, Kaustki rồi bị Lê-nin đánh
cả cụm vì chủ trương đấu tranh nghị trường đấy, các đảng Xã hội và Công
đảng ở thế giới hiện nay thuộc phả hệ nó.
Cầm cuốn “Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác”, anh huých khẽ tôi:
- Hay lắm. Cảm ơn, này, Trần Đĩnh cứ đến nhà mình, tha hồ chửi thiên chửi địa.
Một sáng tôi đang ở nhà anh để “chửi” thì Xuân Tửu, Chánh văn phòng Hội liên hiệp văn học nghệ thuật đến nói:
-
Báo cáo của anh đọc trước đại hội văn nghệ, anh Võ Hồng Cương đã xem
xong. Anh Cương đề nghị anh thêm vào cho vài câu của Mao Chủ tịch chứ
chỉ có Liên Xô thì không ổn.
- Được, anh để đấy. Mình đốt đèn tìm cả ngày cũng có ra được câu nào để mà dẫn đâu.
- Chính quyền ra từ nòng súng rồi, nay lý luận cũng ra từ nòng súng nốt à? - Tôi đùa.
Đặng Thai Mai ngạc nhiên. Tôi nói:
-
Võ Hồng Cương chẳng phải là bên nhà binh cùng với một tiểu đoàn nhà văn
quân đội sang dọn dẹp bên văn nghệ đấy sao. Sau 1954, ta quân sự hoá
mặt trận văn hoá văn nghệ cho mạnh thêm hoả lực xung kích ở đây mà… Rồi
có ngày anh giật mình thấy trong tay anh lăm lăm súng đấy.
Đến
đây xin quay lại Nguyễn Đức Quỳ. Vốn hoạt động ở ngoài nước, anh am
hiểu các vấn đề đối ngoại của đảng. Biết tôi viết tiểu sử Cụ Hồ, anh cho
hay 1928, 1929, Nguyễn Ái Quốc đã đến Băng Cốc rồi đi bộ sáu tháng lên
Na Khon vận động cách mạng, sau đó rời Thái. Nguyễn Ái Quốc đi rồi, Việt
Kiều lập Đảng cộng sản Thái Lan, số lượng uỷ viên Ban chấp hành chia
làm ba phần Việt, Trung, Thái đều nhau nhưng Tổng bí thư là Việt Kiều
tên Thung, kiểu như Kaysỏn Tổng bí thư Lào là con một bưu tá Việt Nam ở
Viêntiane vậy. (Bạn tôi, Lê Đức Dục hoạt động ở Thái cùng với Quỳ còn
nhớ tên mẹ Tổng bí thư Thung là bà Hảo. Nhưng Như Quỳnh, Tổng biên tập
báo Phụ Nữ lại bảo mẹ của Thung là cụ Quỳnh Anh, sau này sống với người
con trai là Tài và tôi quen Tài). Tóm lại với ta, quốc tế nhưng phải
Việt thì mới yên tâm, Quỳ nói.
Đảng
này liền bị Thái đàn áp, mãi đến 1948, Hà Nội mới được có đại diện ở
Thái nhưng công an mật Thái phục ngay ở nhà cạnh trụ sở ta, ngày ngày
cho biết ông trêu công khai mày đây. Đầu 1950, Trung Cộng công nhận Việt
Nam thì Thái Lan đòi ta rút đại diện.
- Tớ - Quỳ nói - đi Liên Xô, Hoàng Văn Hoan đi Bắc Kinh, Song Tùng về Hà Nội.
Năm
1976, thăm Vũ Lăng ở Làng Báo Chí Thủ Đức xong tôi đến Nguyễn Đức Quỳ.
Lúc này anh mới bình luận, Thái là nước trọng nhất vua mà mình lại đi
lập cộng sản đưa anh thợ - mà lại là thợ An Nam - lên đả đảo đòi lật đổ
vua người ta thì người ta phải dẹp đi thôi chứ. Họ chả lạ việc Việt kiều
tổng khởi nghĩa hộ Lào cũng như sau này từ 1960, ta cho quân sang đánh
rầm lên ở Lào là để hạ chế độ quốc vương của người ta xuống mà tạo phên
giậu bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh. Thái cho quân sang (danh nghĩa quân
đồng minh của Hoa Kỳ - BT) đánh mình cũng là để chặn trước không cho ta
chiếm Campuchia rồi tẩn sang bên họ. Họ có lập đảng gì ở ta đâu mà sao
ta lại lập cộng sản ở họ? Tôi hỏi có phải lập đảng ở Thái Lan là theo
chỉ thị của Cụ không thì Quỳ im, mắt chớp chớp, bậm miệng lại. Tôi lại
hỏi Tổng bí thư Đảng cộng sản Thái Lan là người Việt thì cũng ná như
Trần Bình người Hoa làm Tổng bí thư đảng cộng sản Mã Lai đấy nhỉ?
Quỳ quay đi. Tôi nghĩ ông bạn ngổn ngang lắm đây.
***
Lại
trở về với Nghị quyết 9 nhất biên đảo theo Mao, tôi sụp đổ ghê gớm.
Thua tan thua nát là một lẽ. Còn nữa là thấy hàng ngũ “ủng hộ chung sống
hoà bình” ào ạt quay đi để ôm lấy cây súng dữ quá.
Khoảng
1964, Đặng Thai Mai đăng ở trang nhất báo Văn Nghệ một bài ca ngợi thơ
và từ bất hủ của Mao Chủ tịch. Chúng phản ánh những vĩ đại này nọ ở
Người.
Sách của Plékhanov phải
sáu bảy năm sau Nghị quyết 9, cực chẳng đã, tôi mới đến nhà Đặng Thai
Mai lấy lại. Đến và về ngay. Anh cũng không giữ để “tha hồ chửi”. Gặp
nhau khoảng mươi phút sường sượng.
Phụ
trách văn nghệ báo đảng, từ đầu tôi được dặn không đăng bài, đưa tin và
nói đến Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, hai nhà văn “có vấn đề tư tưởng”.
Nhưng “vấn đề” thế nào thì không nói rõ.
Tôi
lỡ lại dan díu với hai anh. Đặc biệt với Chế Lan Viên, chúng tôi có thể
nói hàng giờ về các “bố láo” của Mao. Chế chửi Mao quá hay. Tiếc là
không thể đưa ra các ví von rất cơ thể học của anh.
Giữa
năm 1963, trang văn nghệ của Nhân Dân nhật báo Trung Quốc đăng một bài
ca ngợi Chế Lan Viên và tập thơ “Ánh sáng và phù sa”. Tôi liền làm nó
thành một mẩu tin đưa lên trang chủ nhật báo Nhân Dân do tôi phụ trách.
Tên tuổi Chế Lan Viên thế là xuất hiện trên báo đảng, ké vào uy lực của
mẩu tin báo đảng Trung Quốc. Như Phong, chưa quên Chế nói anh chuyên soi
đèn pin vào đít văn nghệ sĩ tiền chiến xem có còn cứt hay không, đã họp
ban văn nghệ chất vấn tôi. Như Phong đưa nguyên tắc xuất bản ra. Tôi
đưa nguyên tắc “báo đảng Trung Quốc” đối lại. Mọi sự lại xong. Chế hời.
Hời viết thường, không phải Hời viết hoa. (Nhân thể nói người Tây Nguyên
gọi người Chàm là Sươn Hơi: Hời).
Tôi
chỉ muốn nhân dịp này bềnh Chế lên, một kiểu lấy gậy Trung Quốc đập
lưng Việt Nam. Không nghĩ tại sao đang khét lẹt tinh thần chiến đấu tấn
công mà Bắc Kinh lại đi khen tập thơ mủi lòng cho phận con người - Qua
đỉnh đau thương, lại đau thương nữa lại đau thương hơn? Ai ở ta đã rỉ
tai Trung Quốc hãy mở cái cửa đột phá này chăng?
Rồi
Nguyễn Thành Long cho biết Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu vừa làm một bữa
chiêu đãi mấy nhà văn nhà thơ Khu 5 trong có Chế Lan Viên (riêng Nguyễn
Thành Long cũng ở Khu 5 nhưng không được mời dự). Hai vị nêu rõ nguy cơ
chủ nghĩa xét lại làm mất cách mạng, kêu gọi văn nghệ sĩ góp sức cùng
với đảng dẹp chủ nghĩa xét lại nếu như còn có tâm huyết đánh đổ đế quốc
Mỹ, thống nhất đất nước, vậy anh em hãy cùng đảng lên thác xuống ghềnh
trận này. Dĩ nhiên Chế cảm động vì đảng coi mình nhiều tâm huyết. Nguyễn
Thành Long kể thêm chuyện nhà lý luận văn học Hoàng Xuân Nhị khóc hôm
ấy.
- Giá sử đảng bảo Nhị tôi là giáo điều thì Nhị tôi còn cười được, chứ bảo Nhị tôi là xét lại thì Nhị tôi xin chết ngay.
Cuối
những năm 70, một chiều tôi ngồi ghế đá bờ hồ với Lê Đạt ở trước Bưu
điện thì Chế Lan Viên đi tới. Anh quàng vai tôi cười nhoẻn bảo Lê Đạt:
- Trần Đĩnh và mình biết nhau từ thuở hàn vi đấy nhá.
Tức là lúc anh không được nói đến trên báo đảng.
Chế đi rồi, tôi bảo Lê Đạt:
- Gia Ninh nói hồi ở Bình Trị Thiên, Chế và Gia Ninh thề với nhau không bao giờ vào đảng.
Chế thề bằng chữ dân dã rất mặn mòi. Rồi Chế vào còn Gia Ninh thề nho nhã thì giữ lời.