Phần IV
Đó là chuyện nghề ngỗng, bây giờ đến cái khoản ăn ngủ và hoạt động của bác.
Về khoản ăn, theo lời Trần dân Tiên, bác thuộc loại dễ nuôi:
"Mỗi
buổi mai, ông Nguyễn nấu cơm trong một cái sanh nhỏ bằng sắt tây đặt
trên một ngọn đe`n dầu . Với một con cá mắm hoặc một tí thịt. Ông ăn một
nửa và để dành một nửa đến chiều . Có khi một miếng bánh mì với một miếng phó-mát là đủ ăn cả ngày" (trang 35).
Về ở, bác lại vận dụng trí sáng tạo đưa ra một kiểu chống lạnh rất ly kỳ:
"Ông
trọ ở một phòng nhỏ trong một khách sạn rất rẻ tiền ở xóm lao động.
Phòng chỉ vừa kê một cái giường sắt chật, một cái bàn nhỏ và một cái
ghế. Chỉ thế thôi, không có gì khác.
Về muà đông
lạnh, mỗi buổi sáng trước khi đi làm, ông để một viên gạch vào lò bếp
của khách sạn. Chiều đến ông lấy viên gạch ra, bọc nó vào trong Những Tờ
Báo Cũ, để xuống nệm cho đỡ rét." (trang 36)
Nếu
đây chỉ là lời bịa đặt thuần tuý, để tự đề cao, để cho đời thấy bác đã
có thuở thiếu thời vô cùng rét mướt, vv..vv ta nên bỏ qua vì trí sáng
tạo của bác chỉ có vậỵ
Nhưng
nếu thật sự bác đã từng chống rét bằng cái kiểu gói viên gạch vào những
tờ báo cũ thì lúc đó bác còn tối tăm lắm, không hơn gì cái thuở ăn xúp
bằng nĩa .
Không
ai gói giữ nhiệt độ bằng giấy báo cũ. Khách sạn bác trọ không có máy
sưởi ở các phòng, mùa đông Paris sẽ lạnh tàn nhẫn vô nhân đạo . Lò bếp
khách sạn đâu có ở cạnh phòng bác. Cục gạch lấy từ bếp ra, gói vào giấy
báo thì chỉ một lúc sau, bác về tới phòng là nó lạnh như cục nước đá rồi
. Để cục nước đá ấy xuống nệm mà nằm cho nó oặt xương sống ra à !
Yêu
cầu các cháu văn nô của bác trong kỳ tái bản tới sửa lại khúc này là:
bác bọc cục gạch nóng vào mớ giẻ rách. May ra đỡ lạnh hơn và nằm chắc
chắn êm hơn, xương sống được an toàn.
Về sinh hoạt thường ngày của bác , chú Trần dân Tiên kể:
"Thường
thường, ông chỉ làm việc nửa ngày, làm buổi sáng để kiếm tiền, còn buổi
chiều thì đi đến thư viện hoặc đến dự những buổi nói chuyện chính tri..
Tối đến ông đi dự mít tinh ở Paris ... Hầu hết trong những buổi mít
tinh này, ông đều phát biểu ý kiến." (trang 36)
Vừa kể đến đó, bác cầm lòng không đậu, lại tự khen ngay một phát ra gì:
"Vì
ông là người ngoại quốc độc nhất trong những nơi này và vì ông CÓ VẺ DỄ
MẾN cho nên thính giả thích nghe ông. Ông Nguyễn KHÉO LÁI những vấn đề
thảo luận sang vấn đề thuộc địa, đặt biệt là vấn đề Việt nam." (trang
36) Mới có mấy dòng kể chuyện đi
mít tinh bác đã nhồi nhét vô được ba bốn lời tung hô vạn tuế: nào là
bác "khéo lái", bác được thính giả thích nghe, bác có vẻ dễ yêu mến .
Nhưng ở đoạn này, bác muốn "nói có sách, mách có chứng" đa`ng hoàng, bác đưa ra ví dụ về chuyện "khéo lái" rồi chuyện "dễ yêu" . Bác kể:
"Có
một lần bác sĩ Cu-ê (Coué) nói về thuật thôi miên. Nhiều người phát
biểu ý kiến, người đông y, người phản đối phương pháp chữa bệnh bằng
thôi miên. Đến lượt ông Nguyễn, ông KỊCH LIỆT PHẢN ĐỐI thuật thôi miên.
Lý do của ông: Thực dân Pháp đã THÔI MIÊN CHÚNG TÔI để đa`n áp và bóc
lột chúng tôị" (trang 36)
"Ông
Nguyễn phát biểu ý kiến kiểu đó thì thính giả thích nghe ông thật.
Người ta vẫn khoái nghe lời nói giễu, khoái coi vẻ mặt ngô nghê, hành
động lố bịch tức cười của những thằng hề.
Các cụ hãy tưởng tượng phong cảnh một phòng họp: Các
chuyên gia đang hăng say thảo luận về thuật thôi miên, đề tài tranh cãi
là có nên dùng thôi miên trong y khoa không. Đột nhiên có một anh Mít
nhẩy lên diễn đa`n, phản đối thuật thôi miên ầm ĩ, kêu la rằng chính
thực dân đã .... thôi miên dân tộc của anh ấy ! Thực dân nào dùng thuật
thôi miên ? Chúng nó đem vũ khí tối tân, quân đội hùng hậu, sách lược
thâm độc đến Việt nam để đa`n áp bóc lột chứ thôi miên làm gì cho thêm
rắc rối . Có bao giờ ta thấy một anh thực dân đứng đưa cái quả lắc trước
mặt anh Mít ngơ nghệch và dụ khị "Ngủ đi! Ngủ đi .... " để rồi sau đó
mới bóc lột, đa`n áp!
Bác
"khéo lái" thế thì khán giả đến cười lăn ra mà chết. Sự ngô nghê của
bác có khả năng chọc cười, làm khán giả bị bất ngờ. Lời nói càng ngu,
mặt mũi càng nghiêm chỉnh thì người ta càng buồn cười, càng thấy bác "có
vẻ dễ yêu".
Khi
kể chuyện lên diễn đa`n chống thuật thôi miên, bác không nhắc đến phản
ứng của khán giả. Nhưng ở một dịp phát biểu ý kiến khác, bác mô tả rõ
hành động của mọi người sau khi nghe bác nói: Họ cười lăn ra !
Bác
kể: "Một hôm, ông Nguyễn đứng lên phát biểu: "Các bạn thân mến ! Các
bạn đều là những người xã hội, rất tốt! Tất cả các bạn đều muốn giải
phóng giai cấp công nhân. Vậy như thế dù đệ
nhị, đệ nhị rưỡi hay đệ tam quốc tế phải chăng cũng thế cả. Những Quốc
tế ấy đều không là cách mạng cả saỏ Những Quốc tế ấy đều không đấu tranh
cho chủ nghĩa xã hội cả sao ? Dù các bạn gia nhập Quốc tế này hoặc Quốc
tế nọ, các bạn cũng phải đoàn kết, nhất trí.
Tại sao tranh luận nhiều thế . Trong khi các bạn tranh luận ở đây thì đồng bào chúng tôi đang rên xiết ở Việt nam."
Mọi
người cười . (trang 44) Bác làm thiên hạ phá lên cười . Nhưng nghe bà
con cười, bác lại hiểu rằng: "Mọi người cười, nhưng không là mỉa mai, mà
là cười cảm tình với một đồng chí non, chưa hiểu được vấn đề."
Có
thể họ không cười mỉa mai thật . Nhưng cười cảm tình thì chưa chắc. Đó
là những tiếng cười dành cho một anh lấc cấc, lố bịch, rất hề.
Từ
trang 38 đến trang 46 bác Hồ kể lại những chuyện du lịch, thời gian làm
tờ báo "NGƯỜI CŨNG KHỔ" và vụ gia nhập đảng Cộng sản Pháp.
Về
tờ báo "NGƯỜI CŨNG KHỔ" thì "ông Nguyễn được mọi người cử ra để làm tờ
báo chạỵ Vì vậy ông Nguyễn kiêm cả viết, chủ nhiệm, chữa bài, thủ quỹ,
xuất bản và liên lạc."
Tờ
báo do một ông tài nghệ mới mấp mé tới mức ký giả săn tin xe cán chó
chủ trương kiêm nhiều chức vụ như thế nên "lúc đầu ông Nguyễn gửi bán
tại những cửa hàng nhỏ. Nhưng bán không chạy lắm". Nghĩa là không khá,
báo ế. Ông Nguyễn giải thích cái sự báo ế này bằng lý do "vì ở Paris có
vô số báo, người ta không thể đọc và mua tất cả." (trang 41).
Bác nói phét, làm như người ta không mua báo bác là tại thị trường nhiều báo quá chứ không phải tại báo bác dở ẹc.
Về vụ vào đảng xã hội, bác than thở là người ta thảo luận nhiều quá và thú thực rằng bác chẳng hiểu mẹ gì.
"Ông
Nguyễn lắng nghe nhưng không hiểu rõ lắm, vì người ta thường nhắc đi
nhắc lại những tiếng, những câu: Chủ nghĩa tư bản, giai cấp vô sản, bóc
lột, chủ nghĩa xã hội, cách mạng không tưởng, khoa học, Xi mông,
Phu-ri-ê, Mác (Saint Simon, Fourrier, Marx) chủ nghĩa vô chính phủ, chủ
nghĩa cải lương, sản xuất, luận đề, phản luận đề ....
Ngoài những ý kiến trên, còn có những lời giải thích và những lời tranh luận khác. Ông Nguyễn nhức đầu vì khó hiểu" (trang 43).
Riêng vụ du lịch, bác có vẻ rành, nên bác ba hoa:
"Sau
mỗi chuyến đi, ông Nguyễn kể cho chúng tôi nghe cảm tưởng của ông.
Thường thường ông nói nửa đu`a nửa thật. Trong những ngày nghỉ, không
nên tiêu phí tiền bạc, mất thời giờ ở bải bể để nhìn người đa`n bà đi
tắm, mà nên du lịch, học hỏi được nhiều (trang 38). Không phải chỉ vì
thích đi du lịch mà ông nhịn ăn, nhịn tiêu . Ðiều đó cũng có, nhưng nhất
là ông muốn biết những nước ấy Tổ Chức và Cai Trị như thế nàọ" (trang
40)
Khoe là đi
các nước để xem người ta tổ chức và cai trị như thế nào, nhưng những
đoạn văn đưa ra nhận xét của bác về các quốc gia thì toàn là văn tả cảnh
hoặc mô tả sinh hoạt một cách mơ hồ và lèm bèm kiểu như:
"Va-ti-căng
có nhiều lâu đa`i vĩ đạị Nhà thờ thánh Pi-e (Pierre) là một kỳ công
kiến trúc. Viện bảo tàng Va-ti-căng là một cuốn sách sống về lịch sử tôn
giáo . Ngoài những vật quí khác, người ta còn thấy cả những bánh xe
thời Trung cổ. Khi nào nông dân không nộp thuế cho nhà chung, ngươì ta
buộc chân tay người nông dân vào bánh xe vừa đánh, vừa quay" (trang 38) "phụ
nữ Ý hát rất hay . Tiếng hát trong như tiếng chuông. Theo ông Nguyễn
thì nước Thuỵ Sĩ xinh hơn hết. Bá linh so với Pa ri và La mã giống như
một miếng bánh mì so với bánh ga tô . So
sánh như vậy cũng không đúng lắm vì Bá linh cũng như tất cả nước Ddức
đang khốn khổ vì nạn đói . Nạn lạm phát ghê gớm. Một chút gì cũng trả
mấy ngàn Mác (đồng tiền Đức)." (trang 40).
Có
thấy "cách tổ chức và cai trị" của nước nào đâu, chỉ nghe lời kể lảm
nhảm, nhạt nhẽo của một nhà du lịch kiến thức nghèo nàn. Lời kể cũng đầu
Ngô mình Sở, lộn xộn không đáng viết thành sách.
Sau
những thảo luận kịch liệt "làm ông Nguyễn nhức đầu lên" vì khó hiểu,
đảng xã hội Pháp chia ra làm hai: Phần lớn thành đảng Cộng Sản Pháp. Bác
Hồ đi theo nhóm đa số và được đưa qua Nga học tập, bắt đầu dợt nghề làm tay sai cho điện Cẩm linh.
Ra Đi Bí Mật
Sau
đây là cảnh bác Hồ rời khỏi Paris, văn sĩ Trần dân Tiên dàn văn, xếp ý,
gò khúc này dữ lắm để cho cảnh biến mất của bác hết sức đột ngột, ly kỳ
và cải lương ra rít. Cũng phải nói thêm: trong cảnh biệt ly ảo não này
có mấy nhân vật như cô bé Alice và cậu bé Paul đột ngột xuất hiện đóng
tuồng. trước đó không ai hề được nhắc tớị Bà B., Alice, Paul ra đời chỉ
vì nhu cầu "lâm li" của đoạn văn mà thôị
"Theo
lệ thường, chiều thứ bẩy, những đồng chí Sê-nê-ga-le, Ma rốc,
An-giê-ri, Man-gát, vv .. vv đến toà báo Người Cùng Khổ để thảo luận về
những bài viết cho số báo saụ Ngày hôm ấy họ thấy toà báo đóng cửạ Họ gõ
cửạ Không thấy trả lờị Người ta bắt đầu ngạc nhiên và bàn bạc.
- Có lẽ ông Nguyễn ốm chăng ?
- Không, nếu ốm thì ông đã báo cho chúng ta biết .
- Hoặc bị bắt chăng ?
- Không thể. Chúng nó không dám làm như thế ở Pa-ri .
- Có lẽ ông bận đi việc gì.
- Ông Nguyễn sẽ để lại cho chúng ta một chữ. Ông Nguyễn thường làm như thế.
- Như vậy chúng ta đợi một lát.
- Không cần . Chúng ta đến nhà ông B.., chúng ta sẽ trở lại sau .
Ông
B.. là một luật sư người Ăng-ri. Ông Nguyễn thường đến nhà ông. Bà vợ
ông coi ông Nguyễn như anh em. Ông Nguyễn rất yêu hai đứa con ông, một
cháu gái tám tuổi và một cháu trai bốn tuổi, và cũng được chúng rất mến.
Những người bạn gặp ông B.. trong phòng khách cùng vợ và hai con. Hai vợ chồng có vẻ buồn. hai đứa trẻ khóc.
- Gì thế ? Những người bạn hỏi ông B..
Bà B.. gạt nước mắt chỉ mảnh giấy gấp để trên bàn và nói:
- Các bạn đọc đi sẽ biết ....
(Sau đây là đoạn chót lá thư của "ông Nguyễn")
"Tôi
sẽ viết thư cho các bạn. Nhưng tôi không giám hứa với các bạn, vì không
phải dễ viết thư khi người ta hoạt động bí mật. Dù tôi có viết thư cho
các bạn hay không, các bạn hãy tin chắc rằng lòng tôi luôn luôn yêu các
bạn. Nhờ các bạn bắt tay những người bạn Pháp của chúng tạ
Bây giờ một vài lời với cháu trai và cháu gái.
Các
cháu rất yêu chú và chú cũng rất yêu các cháu, phải không các cháu .
Chú sẽ nói với những người bạn nhỏ Việt Nam là các cháu rất ngoan. Chú
sẽ thay mặt các cháu bắt tay các bạn nhỏ Việt nam.
Có
lẽ rất lâu, các cháu sẽ không thấy được chú Nguyễn, không được leo lên
đu`i, lên lưng chú như các cháu thường làm. Và cũng rất lâu chú sẽ không
thấy cô A-lít-sơ (Alice) và cậu Pôn (Paul) của chú. Khi chú cháu mình
gặp nhau, có lẽ chú đã già, các cháu lớn bằng ba và má. Ðiều đó không
ngại gì. Chú sẽ luôn nhớ đến các cháu . Các cháu luôn luôn vẫn là cô bé
A-lít-sơ và cậu bé Pôn thân yêu của chú
Các
cháu ngoan. Học thuộc bàị Vâng lời cha me.. Ðừng đánh con chó nhỏ
Ma-ri-uýt (Marius) của các cháu . Khi các cháu đã hơi lớn, các cháu sẽ
đấu tranh cho tổ quốc của các cháu cũng như ba má, chú Nguyễn và những
chú khác.
Các cháu nhỏ thân yêu của chú, chú hôn các cháu rất kêụ Các cháu hôn mẹ hộ chú.
Chú Nguyễn
Bác sĩ R.. ngừng đọc.
Mọi người nhìn nhau không nóị Cậu bé Pôn phá tan cảnh im lặng hỏi mẹ:
- Chú Nguyễn đâu hở mẹ ?
- Khi nào thì chú ấy trở lại hở mẹ ? Cô bé A-lít-sơ hỏi theo .
- Chú ấy sẽ trở lại khi nào nước chú độc lập. Bà B. trả lời và ôm chặt lấy hai con". (trang 47-50)
Các
đồng chí Sê-nê-ga-le, Ma-rốc, An-gê-ri, Man-gát v..v.. cùng chung một
lý tưởng, hoạt động "bí mật" cùng với bác, làm báo "Người Cùng Khổ" với
bác. Tóm tắt, họ chia xẻ với bác những chuyện sinh tử lớn lao . Thế mà
lúc bỏ Pháp qua Nga bác không báo trước cho anh nào một lời . Ðến nỗi cả
lũ đồng chí phải lốc nhốc kéo nhau đến nhà ông bà B... Mà bác có ra đi
bí mật hoàn toàn không ? Ðâu có,
bác gửi lại những dòng thư tâm tình tha thiết, cảm động mê tơi cho hai
"đồng chí" Alice và Paul (một cháu tám tuổi và một cháu mới bốn tuổi).
Với cậu bé bốn tuổi bác đem cả chuyện đấu tranh cho tổ quốc ra dặn dò,
nhưng với các đồng chí lớn, bác hoàn toàn bí mật. Cho cả lũ tha hồ xớn
xác tìm bác.
Ôi
chao! Các đồng chí nước bạn Sê-nê-ga-le, Ma-rốc, An-grê-ri, vv..vv..
cũng chả nên buồn vì lối cư xử ngớ ngẩn, nhảm nhí của bác. Chẳng qua là
tại bác mê cải lương quá đỗi . Và trong cảnh ly biệt rất cải lương này,
các đồng chí không có vai trò nào gây cảm động bằng hai đứa bé con. Thế
nên các đồng chí mới bị bác tỉnh bơ dẹp qua một bên.
Nghệ Thuật Vẽ Rồng
Viết xong khúc này, chú Tiên, bác Hồ có vẻ đắc trí, hả hê lắm.
Bác lại long trọng hạ hai câu:
"Thế là một lần nữa ông Nguyễn biệt tích
Một lần nữa chúng tôi mất khâu chuyền" (trang 51)
Bây
giờ thì độc giả biết tỏng ra rồi . Lời đe doạ của bác hết thiêng . Dù
bác biệt tích, dù chú la lối mất khâu chuyền thì rồi câu chuyện vẫn tiếp
tục như thường .
Nhưng tại sao ông Nguyễn lại hay "biệt tích" thế? Sẽ có độc giả đặt câu hỏi như vậy, và đó
là mối lo của nhà cầm bút Trần dân Tiên. Cái trò bắt bác khi biến, khi
hiện này là một nghệ thuật cao cường của chú. Nếu người đời không thấy
được cái chỗ hay ho, tài tình ấy thì uổng lắm, thiệt thòi cho chú lắm.
Thế là chú Tiên đa`nh khơi khơi giảng huỵch toẹt cái hay trong nghệ thuật viết văn của mình ra:
"Một
câu châm ngôn Trung quốc nói: "Một nhà họa sĩ vẽ giỏi không bao giờ vẽ
nguyên cả một con rồng, mà vẽ con rồng khi ẩn, khi hiện giữa những đám
mây " (trang 51)
(Đáng
lẽ chỗ này nên để cho lũ văn nô xúm lại bốc thơm hồi ký của bác, "phát
giác" ra, nhưng bác sốt ruột quá, xí luôn công việc ấy . Thành ra bác
viết văn tự ca tụng rồi lại viết ca tụng chính cái nghệ thuật tự ca tụng
của mình.)
Viết xong câu giải thích. ngẫm nghĩ, bác lại thấy hình như chú Trần dân Tiên hơi át giọng bác Hồ kính yêu Ðộc
giả có thể hiểu lầm rằng sở dĩ con rồng đẹp là nhờ nhà hoạ sĩ có tài .
Cái kỹ thuật tài tình dùng mây che bớt rồng làm cho con rồng nổi bật,
chứ sự thật, rồng có thể xấu xí hơn rồng trong tranh.
Thế là, bác vội đe` cổ chú Tiên xuống bắt viết những lời khiêm tốn.
"Chúng
tôi không phải là những nhà họa sĩ có tài . Chúng tôi không để những
đám mây trong tiểu sử của Hồ chủ tịch, nhưng đến đây thì chúng tôi phải
thú thật rằng đã mất mối câu chuyện." (trang 51)
Nghĩa
là bức tranh đẹp không nhờ tài họa sĩ mà nhờ chính con rồng. Con rồng,
khi đứng chụp hình, đã biết lấy mây che bớt vài khúc cho mình thêm mờ ảo tranh đẹp vì Rồng Hồ khéo dàn cảnh, không vì họa sĩ Tiên khéo vẽ.
Tất
cả những trò ly kỳ rùng rợn như "bác biệt tích", "chú Tiên mất khâu
chuyền" được giải quyết dễ dàng bằng hai chữ "May thay ...". Từ nay thì
độc giả có thể yên tâm, trong sách còn nhiều "may thay !" nữa .
"May thay lần nầy, khâu chuyền thiếu không lâu . Chỉ trong thời gian ngắn một người bạn Pháp đã kể cho chúng tôi nghe như sau:
"Tuyết
xuống nhiều, phủ một lớp dầy trên chiếc tầu Xô viết tên là X ... chiếc
tầu vừa thả neo trước cửa bể Lê- nin - gờ - rát. Vị thuyền trưởng đưa
cho một người Á đông trẻ tuổi một bộ áo quần lông và vừa nói vừa cười:
Anh tạm dùng, sẽ trả lại tôi khi nào anh không cần đến nữa".
Người Á đông trẻ tuổi cảm ơn, mặc áo quần ấm và đợi . Hai người thủy thủ trẻ tiến đến và nói với người Á Đông:
"Nếu anh cho phép, chúng tôi đưa anh đến trụ sở".
Đến trụ sở thì một cán bộ ra tiếp, mời ngồi, mời một điếu thuốc lá Nga, dài bằng hai ngón tay, và hỏi:
- Xin đồng chí cho biết tên.
- Tôi là Nguyễn.
- Đồng chí muốn đi đâủ
- Tôi muốn đến đây, đến Ngạ
- Đến có việc gì, đồng chí vui lòng cho biết?
- Để gặp đồng chí Lê-nin.
- Rất đáng tiếc, không thể gặp đồng chí Lê-nin, vì Người vừa mới mất hôm kia - Người cán bộ vừa nói vừa lau nước mắt.
- Trời ơi ! Đồng chí Lê nin mất rồi sao?
Ông Nguyễn sửng sốt và vô cùng cảm động. Người cán bộ hỏi tiếp:
- Theo lời thuyền trưởng, đồng chí đi tầu ... không có giấy phép?
- Đúng, tôi Bí Mật." (trang 52)
Đến
đây, độc giả thấy rằng ngoài cái tật mê những cảnh cải lương, bác còn
khoái truyện gián điệp rẻ tiền, hơi một tí là kêu nhắng lên: "bí mật!". Ở
đây bác lên chiếc tàu Nga, "bí mật" thế nào mà đến
cả ông thuyền trưởng cũng biết, được ông tặng bộ quần áo lông. Cả cán
bộ và thủy thủ đoàn trên tàu đều biết bác. Rời tàu , bác phải đi bắt tay
từng người, lại được cán bộ hướng dẩn đến tận trụ sở. Ông thuyền trưởng
thì khai vanh vách về tình trạng của bác với cán bộ địa phương. Thế mà
khi công an hỏi, bác cứ nghiêm nghị đáp tỉnh bơ:
- Đúng, tôi bí mật!
"May thay" cho tên cán bộ Nga lúc đó, nhờ chế độ Cộng sản kìm kẹp, nó hết biết cười. Nếu không thì đến đứt ruột mà chết.
Trò
bí mật bác khoái từ hồi nhỏ. Quí vị độc giả còn nhớ: Ở đầu sách, cậu bé
Nguyễn Tất Thành khi rủ một cậu bé khác ở Sàigòn đi ra nước ngoài cũng
bắt cậu kia phải giữ "bí mật". Vì lý do gì? Vì cậu Thành được gởi ra
nước ngoài bằng đường dây Cách Mạng? Vì cậu sẽ lên đường trong một đêm
tăm tối, mưa gió bão bùng, không để ai phát giác được hành tung? Không
có. Cậu xuất ngoại bằng cách giữa thanh thiên bạch nhật đàng hoàng đến
bến tàu xin việc. Xin hết tàu nầy đến tàu kia mới gặp một kẻ thương tình
cho chân phụ bếp. Thế mà cũng cứ nhất định khăng khăng giữ ... bí mật!
Bốc Thơm Quan Thầy
Con
người đến Nga "một cách bí mật" ấy đã bị cán bộ Nga đón tiếp một cách
không bí mật tí nào cã. Sau màn phỏng vấn, biết gặp được một tên tay sai
đầy triển vọng, cán bộ Nga cho Hồ đến ở khách sạn quốc doanh và nuôi
nấng cẩn thận, chỉ cấm không cho ra ngoàị Thế cho nên mấy hôm sau, được
hỏi nhận xét, cảm tưởng về nước Nga, bác phang ra một câu xanh rờn: "Tôi
thấy rất rét!".
Nguyên văn đoạn đối thoại:
" - Anh đấy ử Paul hỏị
- Vâng tôi đây, ông Nguyễn trả lờị
- Anh làm thế nào mà đến đây được?
- Như lệ thường thôi, bằng cách Bí Mật.
- Anh đến đây vào lúc đang buồn. Lê nin vĩ đại vừa mới mất.
Hai người bạn lặng yên một lát, buồn rầụ Rồi Pôn nói tiếp:
- Anh thấy xứ này thế nàỏ
- Tôi Thấy Rất Rét. Ngoài ra không biết chuyện gì khác, vì tôi đã hứa với người cán bộ là không ra khỏi khách sạn." (trang 54)
Coi
bộ tình cảnh bác tới Nga lần đầu thảm hơn lần tới Pháp. Đến Pháp, bác
còn được tà ta ra tiệm cà phê, được bồi gọi là Ông nên bác có nhận xét
rất rộng ra rãi:" Người Pháp ở Pháp tốt va lịch sự v ...v..." Đến Nga,
bị cán bộ cấm ra khỏi phòng bác sầu đời, phang ra một quả nhận xét cộc
lốc: " Tôi thấy rất rét!" Nghe tuy quê mùa nhưng cũng khá dũng cảm.
Nhưng sự hậm hực chê bai nước Nga chỉ có thế. Sau đó là tràng giang đại hải những lời ca ngợi, kiểu như:
"Ông
chú ý nhất đến chế độ xã hội nước Nga . Ở đây, mọi người ra sức học
tập, nghiên cứu để tiến bộ Chính phủ thì giúp đở khuyến khích nhân dân
học tập. Ở đâu cũng thấy trường học ..." (trang 56)
Điều
này bác ca ngợi đúng. Nga mở ra nhiều trường lắm. Tây bá lợi á cũng đầy
trường. Chính phủ không những khuyến khích mà còn còng dân, dí súng vào
lưng dân đẩy đến trường học tập.
"Có
một số nông trường tập thể rất giàu mà người ta gọi là nông trường
triệu phú. Những nông trường nầy có trường học sơ cấp và trung cấp, thư
viện, nhà chiếu bóng, sân vận động, nhà thương, phòng nghiên cứu nông
nghiệp, nơi chứa máy móc, vân vân ..." (trang 56).
Trích dẫn nhiều chỉ làm nhàm tai độc giả. Hàng triệu cuốn sách, bài báo tuyên truyền của Cộng sản đều có những lời tương tự
Bác
cũng còn dành một trang để ca tụng Nga là thiên đường của con nít
(trong khi chờ đợi thành thiên đường của người lớn.) Những điều ca tụng
của bác, nữa thế kỷ sau nước Nga vẫn ... chưa thực hiện được.
Đặc
biệt ở những trang ca tụng nước quan thầy này, bác viết như chép từ
những tài liệu tuyên truyền hoặc nghe lại lời ba hoa của một cán bộ
tuyên truyền. Bác không kể nổi tên một người, một địa danh nào đặc biệt.
Có lẽ tụi Nga chỉ cho bác đi vài vòng ngắm cảnh rồi giam bác ở khách
sạn cho học tập tối ngàỵ
Cái khúc con rồng hiện ra ở nước Nga này hơi thảm. Giá bác cứ cho nó "biệt tích" luôn thì lại đỡ hơn.
Từ trang 62, bác kể lại thời gian hoạt động ở Tầu, ở Xiêm (Thái Lan).
Được
quan thầy Nga huấn luyện, dậy dỗ, bác tiến bô. thấy rõ. Tài chôm chỉa
của bác nhuyễn lắm rồi . Các sáng kiến, công lao của người khác, ở mọi
địa hạt, nếu vừa mắt, hạp ý, bác vồ gọn.
Thí dụ ở trang 62, bác kể:
"Ba nguyên tắc của bác sĩ Tôn dật Tiên là:
- Dân tộc độc lập.
- Dân quyền tự do.
- Dân sinh hạnh phúc."
Quí
vị có thấy cái gì quen quen không? Vâng, mấy khẩu hiệu ấy, bác thuổng
hết, xài suốt đời, thành ra ta cứ đọc thấy những câu dài dòng: "Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa độc lập, tự do, hạnh phúc" được gắn nguyên con cho
miền Bắc.
Về vụ dựa hơi hại nhà cách mạng Phan bội Châu và Phan chu Trinh, bác kể:
"...Thực
dân Pháp đã phạm một sai lầm là bắt nhà lão chí sĩ yêu nước Phan bội
Châu, lúc bấy giờ ở Trung quốc, và muốn kết án tử hình cụ Phan. Tất cả
nhân dân Việt Nam nổi dậy chống lại vụ án này và yêu cầu tha cụ Phan.
Chưa bao giờ có một phong trào quần chúng rộng rãi như vậy. Đây là một dịp tốt cho ông Nguyễn tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước." (trang 63).
"Nhà
lão ái quốc Phan chu Trinh ở Pháp trở về Việt Nam. Về được một năm thì
cụ mất. Từ Bắc chí Nam, nhân dân ta tổ chức đám tang rất lớn. Bọn cầm
quyền Pháp can thiệp cấm những cuộc truy điệu và bắt bớ những thanh
niên, sinh viên hăng hái nhất trong cuộc vận động đó. Sự can thiệp này
đã thổi thêm ngọn lửa yêu nước của ông Nguyễn ..." (trang 64)
Bác Tự Cứu Đói
Bác Tự Cứu Đói
Nhưng lý thú nhất là vụ bác ăn cướp cơm chim, nghĩa đen.
Nguyên
là hồi bôn ba ở Thái Lan, bác thất nghiệp nặng. Lúc ở Tầu, bác sinh
sống bằng nghề thông dịch. Ở Nga, bác được nuôi . Ở Anh thì có nghề rửa
chén. Thời gian ở Pháp huy hoàng hơn cả, bác cầy hai "dóp" : một là rửa
và phóng đại hình, hai là ngồi sơn vẽ đồ cổ giả để bịp mấy bà già. Riêng
thời ở Thái, bác khai nghề nghiệp rất mơ hồ: "Cuốc đất, đi buôn" Chắc
là đọi Bác bèn kể lại một mưu mẹo thần sầu để cứu đói cho chính mình và đồng bọn.
Bác kể:
"Người
Xiêm mộ đạo Phật và rất hiền lành. Đến tuổi nào đó, con trai phải đi tu
ở chùa mấy tháng. Vì vậy trong nước có hàng ngàn nhà sự Sư rất được
nhân dân kính tro.ng. Và được
nhân dân nuôị Mỗi ngày họ chỉ ăn một bữa, vào mười giờ sáng. Chị em mang
cơm đến chùa . Sư cứ việc ăn không cảm ơn ai . Họ chỉ cảm ơn Phật tổ.
Khi sư ăn xong, cơm rau còn lại khách qua đường có thể ăn. Những người
đưa cơm đều rất sung sướng được dịp bố thí. Nhờ thế mà ông Nguyễn và những người bạn của ông có thể đi đường không tốn tiền cơm. Nếu không gặp Những Người Khách Đói, người đưa cơm đem một phần cơm thừa cho chim ăn." (trang 66)
Tội nghiệp những con chim bị những người khách đói "ăn chặn." Trước khi có "ông Nguyễn và đồng
bọn" xuất hiện, chim Thái Lan sống rất phủ phê . Cơm thừa của các nhà
sư bao giờ cũng dư giả. Bây giờ thì " những người khách đói " vét sạch
bách.
Nguồn gốc của từ ngữ " ăn cướp cơm chim " chắc là đây .
Nghĩ
kỹ ra thì những con chim Thái Lan thửa ấy vẫn còn may mắn lắm. Ngày đó
có bác đi nhẹ vào đời chim, chim phải một phen bữa đói bữa no, nhưng còn
tự do đậu trên cành hót chửi bác và tự do bay đi . Còn dân Việt Nam bị
bác đi nhẹ vào đời thì đói kinh niên, mất tự do thê thảm cho tới chết.
Bạn Đọc Hồi Hộp
Bạn Đọc Hồi Hộp
Khi rời nước Tầu, đến Thái Lan hoạt động bác lại biểu diển tuồng "biến mất" thêm một phát nữạ
"Một
lần nữa ông lại mất tích. Ông Nguyễn đi đâụ Không ai biết. Những đồng
chí của ông cũng bị nghi ngờ và bị Quốc dân đảng bắt bỏ tù. Chúng tôi
lại mất mối thêm một lần nữa..." (trang 65)
Trong
trò "biến mất", "mất mối" kỳ này, chú Trần dân Tiên và vai trò của chú
lại bị bác quên mất tiêụ Hai chữ "may thay" bác cũng quên luôn. Sau khi
than bác mất tích, chúng tôi "mất mối" bác viết tỉnh bơ, không cần ai
kể, không cần "may thay có người biết..." như thường lê..
Cả ở những việc không đáng gì bác cũng cứ nhơn nhơn, trắng trợn phơi sự láo khoét của mình ra như thế! Quái đản thật.
Rồi đến cuối trang 85, thình lình bác Hồ lại la hoảng:
"Ông Nguyễn Lại Mất Tích!"
Và
lần này coi bộ bác sốt ruột lắm rồi, chịu không nổi, bác nói thẳng với
độc giả: " Các bạn thân mến, chắc các bạn cũng Hồi Hộp khi đọc chuyện
của một người khi xuất hiện khi mất tích, lại xuất hiện, lại mất tic'h
luôn luôn và đột ngột như thế".
Hóa
ra bác Hồ thèm thuồng sự vinh quang của mấy tay viết truyện trinh thám,
gián điệp rẻ tiền. Bác xào đi xào lại cái trò "ông Nguyễn mất tích" để
bắt bà con "hồi hộp" đấỵ
Nhưng
hồi hộp thế quái nào được. Kết cuộc câu chuyện của bác đã được phơi ra
từ những trang đầụ Độc giả biết tỏng rằng "ông Nguyễn" dù có biến, hiện
loạn xị thì cuối cùng cũng về ngồi lù lù ở Bắc bộ phủ. Vả lại, cứ theo
tình tiết câu chuyện thì thường mỗi lần gặp thế nguy, bác lại biến mất
tiêụ Bị Quốc Dân Đảng Trung Hoa muốn hãm hại, bác biến. Bị thực dân
giăng bẫy bắt, bác "mất tích". An toàn khỏe ru như thế, hồi hộp vào cái
khổ nào .
Đầu
tiên, bác biểu diễn kỹ thuật viết: cho nhân vật lâu lâu biến một lần.
Rồi bác giải thích cái hay của kỹ thuật ấy bằng thí dụ ông họa sĩ vẽ
rồng để nhắc khéo độc giả rằng bác viết tài tình lắm đó. Sau chót, chả
cần giữ ý tứ gì, bác huỵch toẹt hỏi thẳng độc giả: Tôi viết có hay
không? có khéo không ? chắc là tôi làm quí ngài hồi hộp phải biết !
Loại
văn sĩ nghĩ văn mình là nhất không hiếm trên đời, nhưng vừa viết văn
vừa tự khen, cưỡng bách độc giả phải khen ngay tại trận thì chỉ có mình
bác.
Tình
cảnh ấy thảm thương như một anh hề vừa giễu xong vội giải thích tất cả
kỹ thuật giễu của mình rồi chất vấn khán giả: chắc là "các bạn thân mến"
đang buồn cười lắm vì tài giễu của tôi!