Lê Đức Thọ
không bắt tù tội nhưng bắt đi lao động cải tạo. Cùng Chính Yên. Tại nhà
in báo đảng, cơ ngơi cũ của IDEO, Nhà in Viễn Đông Pháp, phố Tràng Tiền.
Tôi hẹn Chính Yên 7 giờ sáng tới vườn hoa Nhà Kèn chuyện trò vài câu
đã.
Đến
đây xin một ngoặc đơn: Vườn hoa này mang tên bà thủ tướng Ấn Độ Indira
Gandhi, con gái Nehru. Sao không phải Lê-nin hay Mao Trạch Đông? Khó,
hai gánh ân tình của ta thù nhau nên ngáng nhau vào vườn hoa Hà Nội do
đó Ấn Độ, quê hương Phật giáo vớ. Nhưng sao không phải Thánh Gandhi hay
Nehru, hai vị sáng lập ra Nhà nước cộng hoà Ấn Độ mà lại là con cháu
thua xa các vị về tên tuổi, tài cán? Bởi lẽ Gandhi kịch liệt chống bạo
lực, còn Nehru thì bị Bắc Kinh chửi thậm tệ và Hà Nội đã té nước theo
mưa…
Còn
mãi sau này nhờ Trung Quốc đã thành thù, Lê-nin mới rộng chân đến được
vườn hoa Canh Nông cũ. Ở đây trước đặt tượng Tứ dân sĩ nông công thương
làm lụng dưới bóng che chở của một lính Pháp chỉ tay vào Cột Cờ ra ý
bình định Hà Nội. Nay Lê-nin cũng chỉ tay song Người “chinh phục trái
tim khối óc” chứ đất cát Người không thiết. Và rất lạc hậu về quan trí,
dân Hà Nội đã vè:
Ông Lê-nin ở nước Nga,
Cớ sao ông đứng vườn hoa nước này,
Ông ưỡn ngực, ông chỉ tay,
Ông xem như thể nước này của ông,
Tự do hạnh phúc đừng hòng còn xa,
Kìa xem gương của nước Nga,
Bảy mươi năm lẻ mà có ra cái đếch gì!
Rồi
từ đây kỷ niệm ông, chả biết phân cấp thế nào mà chỉ có thành uỷ mấy
người đến cúi đầu tưởng nhớ ông còn Trung ương trở lên thì không…
Ngồi ở ghế góc giáp Bắc bộ phủ trông sang Ngân hàng, tôi bảo Chính Yên:
- Mình muốn nói cái này. Một là sự sống chắc chắn tiến lên chứ không hãm tài thế này mãi. Hai là, la sagesse du peuple
- cái sự khôn ngoan của dân, không bao giờ coi chúng ta là phản động.
Cậu thích Camus thì Camus có câu này đấy: Đâu không có hy vọng thì hãy
phát minh ra hy vọng ở đấy…
Chính Yên lên xe đạp từ trên hè tụt xuống đường, ngửa cổ hát câu mở đầu quốc ca Pháp: Nous entrerons dans la carrière…
Giám
đốc nhà in Trần Ngọc Phương, chốn quen biết từ tít thời rừng sâu núi
thẳm đích thân đưa tôi lên gác năm đến tổ đồng mô (tiếng Trung quốc là
mẫu chữ đồng), bộ phận chuyên sản xuất chữ chì. Trước đó chữ toàn nhập.
Ngọc Phương trước là công nhân sắp chữ ở báo l’Action,
nơi bố tôi làm ở đó. Lúc chỉnh đốn tổ chức tôi đã hỏi Phương xem bố ông
có vấn đề chính trị gì không thì Phương nói ông cụ nói tiếng Tây như
Tây và cứ ra khỏi toà báo là đã có mấy cô chờ. Ông cụ ông bênh công nhân
chứ? Đúng, có khi quát thằng cai người Đức Reitauffer, thằng này hay xà-lù anh em công nhân ta lắm. Bây giờ có lẽ Phương bênh tôi vì thế chăng?
Chỗ
tôi làm việc là một xó biệt lập hoàn toàn. Một góc tường năm sáu mét
vuông. Tôi sẽ ngồi chiếu thẳng vào đỉnh góc và sau lưng tôi một đường
ray lượn đúng đến đó thì dừng lại với một cỗ xe goòng mặt bàn thấp bé đỗ
ở trên, thứ đồ chơi luôn làm tức dậy náo nức ở sau lưng một thời thơ
nhỏ và một sớm lên đường. Giữa góc tường là một lò điện lớn, tôn của
thùng đựng mực vây kín xung quanh. Trên mặt lò, một chảo đại. Nắp chảo
hình nón bằng tôn có một ống khói bằng sắt tây vươn lên rồi gẫy làm ba
khúc luồn qua khung cửa sổ nhỏ giáp trần chui ra ngoài: hệ ống thải khí
độc. Một cửa vuông ở rìa nắp chảo úp xuống miệng chảo; tôi thò muôi qua
đó múc chì chảy đổ vào khuôn thạch cao. Bên phải tôi, một cửa vu vơ ra
lưng trời. Đúng lưng trời! Vì ngoài đó là một cầu gỗ mảnh dẻ, kiểu lan
can tàu thuỷ, dài chừng hai mét rồi chấm hết lơ lửng. Nếu không phải là
dẫn đến nơi tự sát dễ nhất.
Lúc nghỉ tôi hay ra đứng tì tay thành cầu cúi nhìn xuống sân khách sạn Thống Nhất. Một lần bảo Chính Yên đoán xem Danièle Hunebelle,
nhà điện ảnh Pháp nổi tiếng và xinh đẹp, nhân tình lừng thế giới của
Henry Kissinger và bà nhà văn nổi tiếng cũng xinh đẹp người Ý, Oriana
Fallaci đã ở cái buồng nào tại ba tầng gác trước mặt kia. Tôi không nhớ
bà nào đã viết: ở đây khi cần nước thì vòi không chảy mà đêm khuya không
cần thì nó lại chuyên cần nhỏ giọt cầm canh cho khách không nhắm mắt.
Sáng đang thiu thiu thì khắp xung quanh nhạc tập thể thao ầm ầm nổi lên
cho “các gã xương xẩu tội nghiệp hoa tay múa chân” trên ngay vỉa hè
quanh khách sạn… Viết về Cụ Hồ tiếp mình: Cụ ga-lăng theo kiểu tỉnh lẻ,
lấy một cành hoa trong bình ra tặng tôi… Lúc đó chưa có hồi ký “Kẻ bị truất phép thông công” (nguyên văn bằng tiếng Pháp Un Excommunié
- BT) của Nguyễn Mạnh Tường nên tôi chưa đoán đúng ông vào gian phòng
nào để gạ khách sạn mua bộ đồ ăn quý, quà bạn bè bên Pháp tặng đám cưới
vợ chồng ông.
Bị
đánh đuổi sau Nhân văn - Giai phẩm, Nguyễn Mạnh Tường đói quá - có lần
lả đi ở đường Trần Hưng Đạo - ông đành đến đây. Quản lý ái ngại đã nói
thật: Bác ơi, chúng tôi cho bọn nước ngoài chúng nó vào để tiện lục soát
xem chúng mang cái gì vào đánh phá chế độ ta thôi chứ ai mua các thứ
này về hầu chúng hả bác? Phải nói chữ bạn đọc của ta hay hơn chữ người
đọc của các nước. Là bạn của người viết thật. Ngồi ở sát bên khách sạn
Thống nhất tôi có cảm tưởng đúng như mình đã bắt tay thân mật với
Hunebelle, Fallaci, Nguyễn Mạnh Tường. Và cả Charlie Chaplin và bà vợ
Paulette Godard. Ông đã ở đây và chắc từng gây tiếng vang lớn vì bà nội
tôi vẫn thường bảo tôi lúc bé là nom như anh Sạc-lố! Tất nhiên với bà
nội thì lố là ghép vào tên Sạc của ông.
Ngoài
những chảo gang, lò điện, hàng chục cân chì, các đồ nghề của tôi rất
gọn nhẹ: nịt cắt ở săm xe đạp ra, những dải băng ni lông để quấn các
thanh nhôm làm khung khuôn, một thùng gỗ đựng thạch cao, một bát chiết
yêu đã mẻ, một muôi mẻ (hai cái để ngào thạch cao), mấy ga-lê chèn chữ
để chèn khuôn. Một hòm gỗ tạp vuông ôm kín hết lò điện và chảo chì, trừ
mặt hòm khoét vừa khuýp với mặt chảo. Rìa hòm gỗ là bàn nghề của tôi.
Đến giờ làm việc, tôi đeo khẩu trang, hạ cầu dao. Luôn thấy mình giống
một tướng phù thuỷ từ giây phút này cho diễn ra những biến động âm thầm
mà dữ dội ở cái khối chì đông cứng trong lòng chảo kia. Chờ chì nóng
chảy, tôi làm khuôn chữ, những chữ hoa. Rồi múc chì sôi rót vào miệng
khuôn. Lát sau dỡ khuôn, cho ra mắt một con chữ mới. Nhiều chữ phải giũa
cho đúng “dem” hoặc cho vuông thành sắc cạnh. Ba nhát giũa, bụi chì đã
óng ánh vun đầy quanh con chữ.
Tôi
tả chi tiết cái việc nó sẽ “cải tạo” tôi vì cần nói rằng thứ nghiệp vụ
này không thể tìm ra nơi thứ hai thực hành nó trên thế giới.
Lạ
là vào việc tôi thường có cảm giác vào một cuộc chơi. Mặt chảo khẽ chao
sóng, chì như một thứ phún thạch bạc xám vật vờ tìm một nơi neo đậu bên
lòng chảo để tạo lấy một lục địa riêng cho nó. Những khuôn thạch cao
đầy chì sôi bỗng hôi hổi trong lòng bàn tay, ấm dần, ấm dần. Để rồi thon
thót đập: chì nguội đi. Lúc ấy tôi ngỡ mình ấp trong tay một con chim
trắng, quả tim tí hon của nó đang nhận lấy máu tôi. Mỗi lúc giỡ khuôn
cho bong ra con chữ mới, tôi lại ngẩn ngắm cái ánh cầu vồng bảy sắc lấp
loá bắn ra từ nền chì tối. Cố đoán đọc những tín hiệu phát đi từ một
chiều sâu nào: có một hành tinh xa đang muốn tiếp xúc với tôi. Lặng lẽ
trao cho tôi một sinh điện mới, một ngôn ngữ mới, một cách nhìn mới.
Ngồi
bên chảo chì rất nóng - mấy trăm độ nóng chảy - nhưng mỗi khi cỗ máy in
rotative chiếm hẳn một gian xưởng lớn dưới tầng trệt bắt đầu chuyển
động cùng những hồi chuông réo, những tiếng hô theo lòng giếng trời dội
lên tận chỗ tôi ở tầng năm, rồi cuối cùng máy chạy rầm rầm với một tiết
tấu ngày một gấp, một gắt, một đều rồi trơn nhẵn, phẳng phiu đi thì tôi
lại bỗng ngỡ như mình đang dự vào một cuộc đua xe tam mã, tứ mã Nga lồng
phóng trên tuyết thảo nguyên. Người mát hẳn lại và lanh lảnh bên tai
tiếng chuông ngựa, tiếng gió hú gào, tiếng reo cuồng vui, tiếng Tolstoi
thúc ngựa cha cha cha…
Khi đã thân, Quỳnh, sư phụ tôi, một thanh niên đẹp trai thì thào bảo tôi:
-
Anh tội nặng lắm nên người ta mới bới lại cái việc đã xếp xó từ tám
hoánh này ra cho anh làm. Độc hại bậc nhất trong ngành in đấy ạ. Hơi chì
này, bụi chì này, nóng bức này. Anh Chính Yên chỉ có làm việc tiếp giấy
cho máy in. Khi anh sắp sang họ bảo anh nguy hiểm lắm. Gần ai anh tiêm
ngay nọc chống Đảng cho nên khi nhà máy phân công em giúp anh học nghề,
em cứ lạy van chối, sợ lắm.
- Thế nay còn sợ không? - tôi hỏi.
- Nghĩ đến ngày anh về toà soạn em đã buồn.
- Thế có thấy mình tiêm cho cái gì chưa?
-
Nghe anh nói hay lắm. Không chỉ em đâu. Cái T. tổ chữ, con nhà tư sản
nòi nên không được thi vào đại học phải vào đây làm, anh có thấy ngày
mấy lần nó từ tầng hai leo lên ngồi bên anh nói chuyện đấy không? Toàn
diện xa-tanh, vế với đùi cứ căng ánh lên thế này, đấy, tư sản khổ đến
đâu nom vẫn cứ sang. Nó bảo ngày xưa để lại thì có mà dùng chứ vải lụa
bây giờ bán lại không tiền mua. Một tối bỏ xi-nê tập thể, T. và tôi đã
đạp xe đi trong các phố vắng Hà Nội. Đến trước cửa công viên Thống Nhất
đen thui, tôi hỏi T. đi đâu nhỉ? T. nói: “Anh đi đâu em đi đấy!”. Câu
nói ngoan quá làm cho tôi đưa T. về. Trả tận chân cầu thang sâu trong
cùng tầng dưới nhà vắng tanh ban ngày vẫn có hàng bán bún thang, bán phở
thuê. Bàn tay T. đặt trên tay vịn cầu thang bằng lim bóng nhẵn tự nhiên
ngửa ra, trắng như một đoá quỳnh mà các cánh thon dài của nó chợt run
lên khiến tôi đã toan cầm lấy.
Những
ngày Linh đi biểu diễn tôi mang con gái đến tận lò chì. Rải hai chiếu
manh rách toang lên xe goòng, đeo cho cháu hai lớp khẩu trang rồi để
cháu ngồi tự “mẫu giáo” ở đấy. Sớm tôi vừa rón rén dậy, cháu đã bật nhổm
lên. Tôi thật không hiểu cái gì khiến cháu phối hợp tác chiến với bố
ngon lành như thế. Vừa ba tuổi rưỡi.
Sáng đầu tiên đến tổ đồng mô, tôi nói với anh em:
- Sang học giai cấp công nhân đây.
Thì Thái Cò, một công nhân trẻ nói ngay:
- Anh đưa em hai hìu em sang hàng ăn trước mặt kia mua cặp quẩy ăn cho đỡ đói rồi em sang tên cho anh cái chữ lãnh đạo!
Khốn nạn, nhọ đít thì lãnh đạo bánh vẽ thôi! Quẩy vẫn hơn bánh vẽ, nào hai hìu đưa đây, sang tên nóng hổi.
Mấy
tháng sau, mẹ Thái mất. Tối tôi đến phúng. Vừa bước vào liền thấy Thái
áo xô lom khom ra đón, một tay che miệng khóc, một tay hẩy hẩy vào ban
nhạc hiếu ngồi ở sau. Nhạc liền cất lên lâm li ai oán suốt thời gian tôi
đứng trước bàn thờ.
Sáng sau đi làm, Thái bảo tôi:
-
Tối qua em chờ anh đến là nổi “xã luận” đón… Thì ban nhạc hiếu thổi kèn
rầm rĩ lên đấy thôi. Anh có thấy mấy cha trưởng ban bên toà soạn ngồi
cứ tròn mắt ra lúc ấy không? Đâu có được đón bằng “xã luận kèn” réo rắt
như anh?
Không biết có phải A Quy
của Lỗ Tấn không mà nhiều lúc tôi hay tự hỏi “Ai thắng ai?”. Lờ mờ thế,
không đẩy tới cùng xem ai là ai, kẻ mà tôi tin sẽ thắng nó.
Chính
trong thời gian cải tạo bằng lao động với giai cấp công nhân, tôi được
nghe rất nhiều tiếu lâm về… cách mạng. Anh em vừa lao động vừa i ỉ ngâm
khẽ. Phải hỏi, phải van nài mãi, các tướng mới đọc rõ cho nghe.
Nhân phẩm toàn dân mất sạch rồi,
Chỉ còn lương thực giá cao thôi,
Lương tâm giá rẻ hơn lương thực,
Chân lý, chân giò cũng thế thôi…
hay
Đảng là mẹ, Bác là cha,
Bác ta mất sớm, mẹ ta goá chồng.
Bác ơi sống lại mà trông,
Thạch Sanh thì ít, Lý Thông thì nhiều!
Có một toán công nhân sang Liên Xô học nghề in vừa về. Tỏ ra có phong cách Nga hơn. Tức là kể tiếu lâm thoải mái. Hỏi ngay tôi:
- Anh có thích nghe tiếu lâm Liên Xô không?
Và
kể luôn. Brezhnev dắt cháu nội đi thăm lăng Lê-nin. Vẫn quen nghe ông
ông vĩ đại, đứa cháu hỏi: “Ông ơi, sau khi ông chết thì ông cũng sẽ ở
đây phải không?” “Ông còn đi đâu nổi với dân ta nữa chứ hả cháu?”. Thì
Lê-nin lật hòm kính đứng ngay lên chỉ tay ra cửa lăng: “Cái thằng này!
Mày tưởng đây là nhà tập thể hả? Cút mẹ mày đi!”
Những
tiếu lâm và ca dao rất hay, không thể kể hết vào đây… Bác Hồ cũng chả
thoát. Bài vè Bác và các cháu làm thơ đấu nhau về thế nào là ỉa đúng ỉa
sai kỷ luật quá hay.
***
Tháng
9, viêm phế quản, tôi nằm bệnh viện. Cạnh giường là tham tán thương mại
Ba Lan. Ngay sau cái nháy mắt đầu tiên, chúng tôi liền chuyện như ngô
rang. Tiện là có lẽ ít ai hiểu tiếng Pháp trong gian phòng bốn người
này. Ở bên trong cùng phòng là một người mặt nom lúc nào cũng khó đăm
đăm. Tôi cảm thấy anh ta không thích chúng tôi tán chuyện với nhau bằng
thứ tiếng từng là thù địch. Ít lâu sau, anh ta ra viện. Nhìn vào mặt
tôi, anh ta nói: “Tôi ở Bộ công an, cũng biết tiếng Pháp”. Rồi quay sang
chào anh tham tán Ba Lan: “Bonjour!”
Nằm bên nhau đã hai tuần mà chia tay lại chào mới gặp, thảo nào anh ta không sửng khi ông Ba Lan chế “kông” tức cộng sản.
Rồi anh ta ra khỏi phòng mặt tự nhiên oai vệ hẳn. Tao có ngọng cái tiếng chúng mày trộ tao đâu?
Anh bạn Ba Lan rất thích phụ nữ Việt Nam. Họ biết họ phải làm gì cho đàn ông. Phụ nữ Âu chỉ biết đòi hỏi đàn ông.
Sao cậu gặp được họ? Ồ, cảnh sát mải soi máy bay Mỹ thì mặt đất là của chúng ta. Chúng mày có gì xuất khẩu được nhỉ?
Không
có. Cam chúng mày chua như chanh. Cam Maroc chúng nó ngọt như đường và
không có hạt. Có một cái chúng mày xuất khẩu được là biển, đáy biển,
lướt sóng, lặn săn bắn cá… Nhưng chúng mày lại cấm du lịch! Cái sự cấm
của chúng mày thì không ai nghĩ ra nổi, - impensable. Chúng tao
là xã hội chủ nghĩa, viện trợ chúng mày nhiều thế mà cũng không được gặp
chúng mày. Nhà nào cũng kẻ khẩu hiệu “Nhà tôi không giao thiệp với
người nước ngoài”. (Tôi hỏi: Biết?) Biết, bọn Nga chúng nó mách. Chúng
tao bảo giá nước chúng mày dọn ra một hòn đảo giữa Thái Bình Dương rồi
cả thế giới cung phụng cho mà sống thì gọn được biết bao nhiêu là chuyện
cho chúng mày và thế giới.
Anh
bạn Ba Lan ra vào Sài Gòn xoành xoạch khi làm việc cho Uỷ ban quốc tế
giám sát ngừng bắn. Tôi hỏi bọn Mỹ thế nào? Anh bạn nhìn quanh rồi giơ
ngón tay cái lên. Tôi đùa:
- Mais c’est l’ennemi? Kìa, kẻ thù đấy!
Anh ta nhún vai:
- Chúng tớ thấy họ là người làm từ thiện.
Một chiều tôi đang chuyện với Chính Yên vào thăm thì Phạm Song, chủ nhiệm khoa lây tìm tôi.
- Anh đến chỗ tôi đi, anh Sáu Thọ gọi.
Sáu Thọ cười rất vui ở đầu dây.
- Ốm sao? Lên tớ được chứ?… Ừ, sáng mai chín giờ hả.
Thăm tôi ở đây, Chính Yên cũng muốn lên.
- Ừ, bảo nó lên với cậu.
Thọ
đã chờ sẵn ở bậc tam cấp. Vừa vào khỏi cổng sắt, thấy Thọ cười răng rất
trắng, tôi gật đầu chào rồi đưa một tay go gõ vào thái dương.
- Làm quái gì mà chẳng bạc! - Thọ đáp.
Vào chuyện là cự ngay:
-
Sao chúng nó lại đưa cậu đi lao động cải tạo? Lao động như thế chỉ tổ
bất mãn. Đưa cậu xuống một hợp tác xã hay một nhà máy có phải là bây giờ
cậu đã viết được một quyển tiểu thuyết rồi không? Tớ vừa ở Paris về là
gọi cậu ngay…
Lan man chuyện chừng mươi mười lăm phút, Thọ nói sắp bắt thằng Lưu Động.
- Không nên bắt! - tôi nói.
- Tại sao?
- Vì khổ vợ con anh ấy. Hãy bảo công an doạ.
- Thằng này láo lắm. Nó đã được tớ khoan hồng mà cứ láo, nói bừa bãi, chửi tớ ghê lắm…
Tôi chột dạ. Lưu Động nay như tên biệt xứ rồi, có ai đến chơi nữa đâu mà bậy bạ?
Ra khỏi cổng, Chính Yên nói ngay:
- Sợ cho anh quá, cụ Kễnh vừa nói “bắt” là anh nói “không nên”.
-
Tớ vẫn quen nói thế với các ông ấy. Có cái này mới sợ này. Bây giờ mà
Lưu Động nó chuồn là tớ hay cậu vào tù thay, ông ấy sẽ bảo là báo cho nó
chạy.
Chính Yên ngớ ra. Nhưng
ngây ngô hết. Sáu Thọ muốn tôi lộ! Tôi lộ thì nhiều khả năng Lưu Động sẽ
xin gặp Sáu Thọ hỏi tại sao anh đã thông báo toàn đảng không bắt tôi mà
nay lại bắt. Sáu Thọ sẽ bảo cậu đem nộp ngay tớ các nhật ký cậu ghi
chuyện chửi tớ và thế là yên chuyện.
Tôi không báo và Lưu Động vào tù.
Anh cho biết anh vừa chân ướt chân ráo vào là Sáu Thọ gặp anh ngay:
- Nhật ký chửi tớ đâu? Nộp ngay cho tớ.
- Tôi đốt nó rồi.
-
Cậu nói láo, cậu gửi nó cho đại sứ quán Liên Xô, anh em chúng nó mách
tớ. Bây giờ cậu phải đi cùng anh em vào bảo họ trả lại cho cậu.
- Thông báo anh nói không bắt tôi, tôi đã đốt…
Nhật
ký này ghi chuyện Thọ thật. Lưu Động có cho tôi đọc cùng với một ít hồi
ký anh viết dở chừng. Trong có chuyện làm trưởng trạm giao liên của
Trung ương, Lưu Động đã ngủ với một cô liên lạc sau là vợ một uỷ viên Bộ
chính trị. Anh hỏi tôi:
- Có để được không hay là bỏ?
- Nếu lúc ấy bà ấy là vợ ông ấy rồi thì nên bỏ còn vẫn chưa chồng thì chả bỏ làm gì, hoài của đi.
Cải
cách ruộng đất đợt hai gì đấy, một hôm Hồ Viết Thắng bảo Lưu Động về
Nam Định gặp hai chi bộ đã qua cải cách, một ở quê Sáu Thọ, hỏi xem có
phải đúng Sáu Thọ gửi thư về quê mách cách phân tán ruộng đất thật như
dư luận phản ánh không, và một ở quê Trường Chinh hỏi xem có phải bố đẻ
Trường Chinh là địa chủ gian ác, thu cả tô tôm tép của trẻ con mót ở
đồng của ông cụ không.
Chi bộ quê
Thọ nộp thư Thọ mách cách đối phó cải cách ruộng đất. Lưu Động đưa nó
cho Hồ Viết Thắng. Thắng nộp Thọ nhưng Thọ muốn xoá đi cả vết tích, thư
này được ghi nguyên văn trong nhật ký Lưu Động, nhất là có tin nói đại
sứ quán Liên Xô nắm được nhật ký này. Sau có lần tôi hỏi Lưu Động gửi
nhật ký cho Liên Xô thật à, Lưu Động bậm mồm không nói, mắt gườm gườm
rất bí mật. Tôi lại hỏi thế còn ở nhà không thì anh càng gườm mắt rồi
hất đầu sang nhà đối diện, cách một cái ao to, ý như cẩn thận… Anh phải
cái tính hay quan trọng hoá.
Về ông bố của Trường Chinh thì chi bộ mới tổ chức lại nói ông cụ dạy học, không là địa chủ và không thu tô tôm tép của trẻ con…
Bữa
ấy ở Sáu Thọ về, tôi tạt nhà Lê Phát, Mã Mây nghỉ trưa. Thiếp đi trên
chiếc ghế băng dài. Chợt có tiếng rì rầm cuối ghế. Lê Đạt! Bao lâu rồi
không gặp? Mấy năm trước, lao động cải tạo về thăm vợ, Lê Đạt gặp tôi
đang gọi cửa nhà bà chị ở đầu Hàng Đào. Rủ tôi đi chơi nhưng tôi đã hẹn
đến đây ăn giỗ. Rồi một hôm tôi và Linh đang ăn bún thang ở Đồng Xuân
thì Đạt và Thuý cũng mò tới. Đạt ngoác mồm cười, chắp tay vái: “Chào cây
bút nhớn ạ!”, “chào nghệ sĩ nhớn ạ!”
Từ
trưa hôm ở Lê Đức Thọ về, Đạt và tôi ngày ngày chuyện trò. Hàng chục
năm trời. Hai chủ đề: thơ, văn học nghệ thuật và khoa học nhân văn, vật
lý. Rồi thời sự.
Lúc
này Đạt đang bế tắc. Làm thơ như cũ thì anh không thích còn làm khác
tức là bằng cái nhìn mới thì sự dấn bước này thậm là khó ở một đất nước
mà mọi cái đều cứ phải chẻ hoa ra là tin yêu và chiến đấu và chiến thắng
và cấm nói mập mờ để xỏ lá ba que do đó thơ là không được khó hiểu.
Phải nhận cái nọc thơ ở trong Lê Đạt nó quá ngoan cố. Có thể nói của nả
dắt lưng Đạt lúc ấy là một quyển sổ tay giấy rơm, sáu chục trang, bìa
màu hồng - màu da quả bồ quân - gồm chừng mươi ba mười lăm bài thơ viết
bằng những chữ nguệch ngoạc không hàng lối của Đạt, trong đó có bài Anh mang tình em đi…
tôi thích. Biết Đạt ít nhiều có nao núng về chuyện thơ - nên tiếp tục
hay thôi, nên dễ hiểu hay khó hiểu - tôi động viên Đạt cứ chịu khó tìm
tòi. Tôi lôi cả Saint - Pol Roux ra: Cây thơ ca cắm rễ của nó trong
tương lai. Rồi Jean Cocteau: Nhà thơ nhớ lại tương lai. Và Apollinaire
gọi thơ là “một nghệ thuật tiên báo”, vậy thì hãy căn cứ tương lai ở
trong đầu cậu mà làm thơ đi. Anh kêu thơ tôi khó hiểu là vì anh chưa
thấy được tương lai. Thắc mắc ba trăm năm sau có ai khóc mình không,
Nguyễn Du đã biết thơ là từ tương lai đi lùi đến…
Một hôm, cuối 1969, Đạt bảo tôi:
- Nhà thơ có lẽ là những người yêu nước nhất. Họ chăm lo nhất đến tiếng mẹ đẻ.
Tôi
nghe mà tủi phận thay cho bạn. Bản án của Đảng cùng thái độ xã hội đã
làm cho Đạt lung lay ngay cả phần nào về lòng yêu nước của mình. Lúc ấy
than ôi, trong “phẩm chất cách mạng” bao trùm tất cả, lòng yêu nước bị
đặt xuống dưới lòng yêu Đảng. Âm thầm chống trả lại, Đạt đã bám lấy
thơ,
cái trận địa mà trong thâm tâm anh vẫn coi Đảng thua kém anh về tài
sản, tức là vô sản chay. Tóm lại tiếp tục giữ khẩu hiệu của Nhân Văn -
Giai Phẩm: trả văn nghệ lại cho văn nghệ.
Đạt
nhiều lần giục tôi viết. Tiểu thuyết về mày, gia đình mày. Tôi im lặng.
Biết viết là cần cực kỳ cô đơn. Và quả tình tôi đã thật sự cô đơn -
đúng ra là bí mật - trong bao nhiêu năm với cuốn sách này.
Đúng
ra, trên thế giới ai muốn làm nhân chứng cho một điều gì đều viết hồi
kí hay tự truyện. Nhưng ở ta kiềng hồi ký. Chưa có truyền thống tự sự ở
ngôi thứ nhất. Song lại giàu truyền thống “bút sa gà chết” - muốn bút sa
mà gà không chết thì phải cấp ra đầy đủ chứng cớ, phải dám đôi mặt một
lời, nhất là chuyện dính đến an ninh, đến quyền lực, ôi, thôi xin là cho
được yên! Có lẽ chặn cản nhiều hơn chính là tâm thức coi thường cái tôi
- chỉ tập thể mới giá trị - vốn cũng bắt nguồn từ sự sợ tiền kiếp nó
luôn đòi giấu cái tôi đi. Cuối cùng cũng còn bị chặn cản bởi định nghĩa
sai lệch về thể loại văn học.
Coi
thường. Chính cái tôi kiêu kỳ giấu mặt làm cao đã hạ giá hồi ký. Nhưng
ai bảo Những con chim hồng hộc của Trương Nhung không phải tiểu thuyết?
Ừ, Trường đại học của tôi và Đời tôi, hai hồi ký hay tiểu thuyết xuất
sắc nhất của Gorki đó.
Nay
khối hồi ký được ghi là tiểu thuyết ở bìa sách. “Tiểu thuyết” của cháu
ngoại nhà văn Francois Mauriac, viện sĩ hàn lâm Pháp, giải Nobel văn
học, là “hồi ký” về mối tình với một đạo diễn điện ảnh nổi tiếng. Và chả
nhân vật lớn nào trên thế giới lại không viết hồi ký. Vâng, tôi xin đối
mặt với công luận đây. Tôi ăn gian nói dối thì các ông cứ việc vạch ra.
Ở ta dĩ hoà vi quý, sợ đối mặt với sự thật, sợ trách nhiệm trước xã hội
thì lại vin cớ tránh tự đề cao. Văn học khuất một mảng quan trọng.
…
Thấm thoắt đã một năm. Tổ đồng mô tiễn tôi. Đám con gái sáu bảy đứa
khóc sướt mướt hết. Cánh đàn ông thì hoe hoe mắt. Trai, tổ trưởng tổ
đảng nói vài lời: “Kính thưa anh Trần Đĩnh, một năm qua gần anh chúng
tôi thấy anh mới là người cộng sản”. (Tôi nghĩ ngay “Chết, không biết
mình chống đảng sao?” Nhưng chả lẽ đính chính?) Rồi tặng tôi một con dấu
“Trần Đĩnh” anh tự đúc lấy cùng một bài thơ lục bát.
Giám
đốc Trần Ngọc Phương đến dự tiễn - như tự thân đưa tôi đến tổ đồng mô
buổi đầu tiên, mà nom cứ hớn hở lên. Hình như công nhân tốt thế này với
tôi là có công anh giáo dục. Tôi hết sức cảm động.
Chả
biết đồn thế nào mà sau này, thế kỷ 21 lận, Dũng, “trung uý Dũng” như
tôi hay đùa gọi, ở văn phòng báo Nhân Dân thấy tôi lại thường tủm tỉm:
- Ông anh sang lôi cuốn công nhân ghê quá nên lại phải tách cá ra khỏi nước, kéo ông anh về.
Cái
sự tinh khôn của dân chúng mà tôi nói với Chính Yên sáng hôm nào thế là
đã được chứng minh. Sự tinh khôn ấy đã cho tôi thấy dân nhìn cái tiêu
cực của Đảng bao la hơn tôi, sát sườn hơn tôi.
Đó: tôi đâu nghĩ như Quỳnh rằng để tôi đúc chữ là đảng muốn tôi nhiễm độc chì mà rồi tàn phế hay chết.
Tôi
đâu như Thái Cò lật tẩy ngay: “Anh cho em hai hìu mua quẩy rồi em sang
tên cho cái chữ giai cấp công nhân lãnh đạo… Mẹ chứ, toàn cho bánh vẽ,
con thằng nhọ đít vẫn lại nhọ đít”. Tôi đâu thuộc các câu ca vạch trần
đảng bằng anh chị em thợ - “chân lý chân giò cũng thế thôi”. Hay: Ai nắm
chân lý Mác-Lê thì dứt khoát vơ về chân giò, cút rượu. Mạt hạng cùng
đinh, anh chị em thấy bộ mặt thường ngày của Đảng rõ hơn tôi và do đó sợ
Đảng hơn tôi, đành cam phận. Tôi vẫn hy vọng làm cho đảng có mặt người
được.
***
Tôi muốn kể một chuyện trong những ngày lao động cải tạo.
Một
sáng, tôi kéo xe bò, Quỳnh - sư phụ đẩy đi từ Hàng Bài về nhà in ở
Tràng Tiền. Đến trước cửa Bodéga, có tiếng người gọi hớt hải ở đằng sau:
- Trần Đĩnh!… Trần Đĩnh…!
Quay
lại. Kim Lân đang cúi xuống nhét lại quai dép râu, tay kia vẫy vẫy. Rồi
hổn hển chạy đến, nửa cười nửa ngậm ngùi (với cái dáng kém mọn ngoẹo
đầu quen thuộc của anh), nắm tay tôi:
-
Đang lên chợ Đồng Xuân thì thấy người anh em, vội rẽ đuổi theo. Từ bé
chưa bao giờ tập thể dục căng đến như thế này… Ừ, nom người anh em vẫn
được đấy, vẫn đàng hoàng, tư cách đấy, Đĩnh ợ, thôi, nhớ lấy nhá, rằng
sông có khúc, người có lúc. Con Hiền nhà mình nó vẫn đến nhà in làm báo
Phụ Nữ đấy, có gặp cháu thì bảo ban dạy bảo nó.
Ý nói tớ đếch cho cậu là phản động, cậu cứ dạy bảo con tớ.
Ba
năm trước, 1967, bốn người “xét lại” bị bắt đầu tiên được vài tháng,
một sáng tôi đến ngã tư Quang Trung - Lý Thường Kiệt thì Kim Lân từ đằng
sau đi lên. Cùng dừng lại ở trước cổng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Kim Lân nhăn nhó nắm tay tôi:
-
Này thôi nhớ, tớ bảo cái này nhớ, bây giờ thằng gian nó đánh người ngay.
Nó móc túi mình rồi nó lại hô làng ối bắt cho tôi thằng ăn cắp là mình
đấy.
Sau
đó nửa tháng cũng tại chỗ đó, Nguyên Hồng thấy tôi thì nhảy đánh phịch
một cái xuống khỏi chiếc xe đạp con vịt Liên Xô, nơi nới sợi dây đay
thắt quanh bụng rồi chớp chớp mắt, ngùi ngùi nói:
-
Tớ về trên Yên Thế Cầu Gồ rồi, chỗ cậu đã đến đấy, bao giờ có thể lại
lên chơi… Tớ thôi phụ trách tờ Văn. Không làm được mà cũng không thích
làm… Cứ bắt chửi Liên Xô thì tao chửi làm sao được? Tao nặng tình với
Liên Xô từ khi tao viết Những ngày thơ ấu với Bỉ Vỏ rồi… Mày ấy, mày là Tư Mã Thiên, mày nói thật nên mày bị thiến, thôi cố nhớ, tao tin mày!
Cái
giá Nguyên Hồng phải trả để được không chửi bậy quá lớn. Lên Cầu Gồ là
anh mất hộ khẩu Hà Nội. Là mất sổ gạo! Là ăn đong quanh năm ngày tháng
với năm sáu cái miệng hết tiêu chuẩn “ăn theo”. “Ăn theo” chỉ vợ con
công nhân viên, còn “ăn bám” chỉ bọn bóc lột. Anh đã nhờ vào tem phiếu
của bạn bè sau các chuyến công tác còn thừa đem cho. Lại may, anh cho
biết, cậu bí thư huyện Yên Thế xưa làm thợ in, nghe tiếng tớ từ thời Tây
thế là rộng cho tớ phần nào lương thực.
Nhưng
anh vẫn cần mượn oai hùm là báo Đảng. Anh mời Xuân Trường, Như Phong,
Địch Dũng và tôi lên dự giỗ Cụ Đề tại Phồn Xương. Dặn phải đi bằng ô tô
lên. Xe chúng tôi còn cách nhà anh một cây số đã thấy anh vét-tông ka
ki, ôm cặp da trâu đựng bản thảo, ngực đeo huân chương vàng choé chờ ở
bên đường từ lâu. Anh không ngồi xe mà đứng ôm cửa xe để hô anh tài rẽ
thế này, quặt thế kia. Người làm đồng khá đông đều quay lại nhìn. Anh
thú thật:
- Trên này cái thế Nhà nước mạnh lắm, tao cần nó để họ còn cưu mang gạo mà.
Một sáng đầu thế kỷ XXI, Kim Lân, Trần Lưu Hậu, Trung Sơn… và tôi ăn uống ở nhà Trần Vũ. Rất vui. Tôi tán mọi sự.
Rằng
tôi thấy cái cổng làng Thư Thị ở Hưng Yên ngày Tố Hữu xua văn nghệ sĩ
cả đàn về đó “học tập thực tế” phong trào hợp tác hoá nông nghiệp - đông
đến nỗi đi vào cái sân bày cơm canh trên nền gạch mà chỉ chen lách nhau
cũng đã mất bao nhiêu thì giờ - Hậu vẽ đẹp hơn chân dung bao vị tên
tuổi. Vì như Matisse nói: tầm quan trọng của một nghệ sĩ được đo ở số
lượng tín hiệu mới mẻ mà hắn ta đưa vào ngôn ngữ của nghệ thuật trong
khi các vị tên tuổi thì chỉ đưa lại những cái cũ mèm của ngôn từ xác xơ.
Sắp tàn cuộc, tôi bảo Kim Lân:
- Tôi kể một chuyện của Kim Lân có lý lịch đã hơn ba chục năm nhé.
- Ừ, thì có cái gì không phải xin xá cho em. - Kim Lân so vai lại nói.
Tôi
kể chuyện anh bảo nay kẻ gian nó bắt người ngay, bắt rồi nó lại kêu
làng nước ơi, này xem thằng ăn cắp…, rồi chuyện anh tụt cả quai dép đuổi
tôi kéo xe bò.
Kim Lân gật gù:
-
Cảm ơn mày, Trần Đĩnh ạ, mày đã nhớ cho tao cái chuyện mà dạo ấy thật
tình chẳng biết ma quỷ nào nó xui tao vốn nhát lại dám nói láo nói lếu
với ngay chính tội phạm chống đảng đang làm cỏ vê là mày thế chứ…
Có lẽ thú chuyện này, Trần Lưu Hậu đã vẽ tôi. Đúng hơn, vẽ một nhếch mép. Sơn dầu. Ngang 1 m. Cao 0,90 m.
Rồi
bỗng một hôm tôi thấy cái nhếch mép chợt có nét siêu thoát lơ lửng của
nụ cười Bayon. Nó nhạo tôi. “Đã thấy con cung quăng trong vũng nước
chưa? Nó giống mày. Quẫy khỏe đấy nhưng câm miệng thì vẫn chỉ là cung
quăng”.