I. ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI
Đất
nước Việt Nam nằm trên ven bờ Thái Bình Dương chiếm vị trí
chiến lược quan trọng trong vùng biển lớn này và là cửa ngõ
của vùng Đông Nam Á Châu. Vì ở phía nam một nước Trung Hoa
khổng lồ luôn luôn theo chủ nghĩa bành trướng, nên con người
Việt Nam, từ nghìn xưa, đã chịu nhiều thử thách điêu đứng để
trường tồn. Ở thời điểm cận đại và hiện đại, với vị thế
chính trị địa dư chiến lược đó, đất nước và con người Việt
Nam không thể thoát được sự tranh chấp của các thế lực lớn
lao Đông Tây, nên đã và sẽ còn nhiều gian khổ khôn lường.
Dù đứng trên quan điểm nào, khi viết về cuộc chiến
ba-mươi-năm của thế kỷ trước, người Việt có lương tâm sẽ
không khỏi chạnh lòng thương cảm về một giai đoạn lịch sử mà
cả dân tộc đã đắm mình trong máu lệ và khói lửa lan tràn
trên mọi nẻo đường, trong mọi thôn xóm, làng mạc, trong mọi
phố phường hay thành thị. Xa ở tận biên thùy Việt Bắc, tận
rặng dãy Trường Sơn, tận vùng đất mũi Cà Mau. Gần ngay ở
giữa cố đô Hà Nội, giữa kinh đô Huế, và giữa tân đô Sài Gòn.
Ở đâu cũng có chiến tranh. Ở đâu cũng có dấu vết của tàn
phá. Ở đâu cũng chỉ thấy giết chóc và hủy diệt, thương tâm
và đau khổ. Là chứng nhân và nạn nhân của cuộc chiến đau
lòng đó, chúng tôi, hàng trăm ngàn chiến sĩ miền Nam đã ngậm
ngùi chôn vùi kiếp sống như con vật lao động trong tận đáy
ngục tù ở núi rừng Việt Bắc trong thời gian dài sau khi đã
chôn vùi tuổi thanh xuân cho một cuộc chiến không biết sẽ
đưa dân tộc và đất nước đi về đâu... Người ta nói quá nhiều
trong tai chúng tôi về độc lập, về tự do và hạnh phúc. Dĩ
nhiên thế hệ chúng tôi đã không tìm được những chiếc bánh
tưởng chừng như thơm ngon đó. Toàn là bánh vẽ. Chúng tôi đã
không bao giờ tìm thấy hay được hưởng hạnh phúc thực sự của
những con người trên một đất nước có thanh khí và ánh sáng.
Cuộc chiến diễn ra dài dẵng. Chỉ có sát khí đằng đằng, khói
lửa trùng trùng và máu lệ tuôn trào thuở ấy.
Chúng tôi không tin rằng đã đếm đủ bao nhiêu lớp người của
thế hệ chúng tôi đã khóc. Những con dân đau khổ của miền Bắc
khóc nhiều lắm. Đó là những ông bà mất cháu, những cha mẹ
mất con, những người vợ mất chồng, những trẻ thơ mất mẹ cha,
những người tình mất nhau... Họ đã biết bao lần nhìn về miền
Nam mà tìm hình bóng người thân trên núi rừng thăm thẳm của
các con đường mòn Trường Sơn, ở Tây Nguyên, ở Bình Trị
Thiên, ở Nam Bộ; hay ở Lào, hoặc ở Miên? Mắt họ đã tràn lệ
ngóng trông, lòng họ đã mỏi mòn nhớ nhung, chờ đợi... những
con người “sinh bắc tử nam”... đã ra đi và đã mất. Mất cả
thể xác lẫn linh hồn ở những chiến trường xa xôi đó. Người
ra đi đã trở thành những liệt sĩ, đem xương cốt mà đắp phù
đồ cho Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN).
Chúng tôi cũng đã nhìn thấy không biết bao nhiêu con dân
miền Nam với những dòng nước mắt đầm đìa trong suốt nhiều
năm. Họ là các đấng sinh thành, là quả phụ cô nhi, là anh
chị em, bạn bè hay là người yêu của những chiến sĩ miền Nam.
Những chiến sĩ này đã hy sinh ở khắp chiến trường miền Nam.
Ở biên giới, trên cao nguyên, dưới duyên hải, ngoài biển cả,
trong núi rừng, đồng ruộng, nương rẫy, thôn xóm, thành thị,
phố phường. Ở khắp nơi. Ở Cam Lộ, Pleime, ở Đồng Xoài, Bình
Giả. Ở Quảng Trị, Thừa Thiên, ở Pleiku, Kontum! Còn ở đâu và
ở đâu nữa? Buôn Mê Thuột hay Phước Long? Tây Ninh hay An
Lộc? Long Khánh hay Sài Gòn? Chương Thiện hay Cà Mau? ở đâu
mà máu người không đổ! Những chiến sĩ miền Nam này, thoải
mái và ước mơ nhiều hơn, cho rằng cuộc chiến này là để bảo
vệ chế độ tự do của miền Nam hay ít ra vì... mắt họ đã từng
nhìn thấy những người bên kia mang nhãn hiệu “giải phóng”
cầm súng giết hàng nghìn người vô tội, bất kể người già, đàn
bà và trẻ con ở Huế --Tết Mậu Thân-- hoặc dùng đại pháo bắn
banh xác nạn nhân trên các con đường chạy giặc, mà động mối
thương tâm, mang hùng khí mặc áo trận vào người? Vâng, khi
nhìn vào kinh thành cũ thấy xương người vô tội chất cao bằng
đầu và thấy trên các con đường đó máu đã chảy tràn lộ loang
sông, thây đã phơi mãng địa... lòng dạ nào không đau xót!
Những chiến sĩ này là những con người biết yêu, ghét, buồn,
thương như những cán binh Trường Sơn. Chỉ khác hơn là biết
đầu ngọn súng... chĩa về đâu... Họ không là những tấc sắt bị
hút vào chiến trường. Nhưng ở chiều sâu của cuộc chiến nhiêu
khê đó, họ đã mặc nhiên thành những “chiến sĩ dung nham” như
một nhà thơ lớn miền Nam đã nói.
Thực ra, có thể nói hầu như tất cả những cán binh miền Bắc
hay chiến sĩ miền Nam đều là những người yêu nước. Họ đánh
nhau vì tấm lòng yêu nước đó đã bị... lợi dụng tạo nên chiến
cuộc mà chính họ không hề muốn. Và rồi nạn nhân của cuộc
chiến đó là con số không thể kiểm kê nổi, dù ở miền Bắc hay
miền Nam. Quá nhiều. Hàng triệu... triệu con người. Chúng
tôi, người Việt Nam trong thế hệ chúng tôi chiến đấu bảo vệ
đất nước và đã trở thành những con người chịu đựng tất cả
nỗi đau của kiếp người trên mảnh đất đầy thương yêu nhưng
cũng đầy bất trắc đó, nơi đã có những bậc đại anh thư những
bậc đại anh hùng và còn biết bao người nữa cầm vũ khí chống
giặc từ những vị vua, quan, sĩ phu, lãnh tướng đến những
nông dân áo vải, từ thày giáo đến học sinh. Họ sẵn sàng quên
sự nghiệp, quên gia đình và hy sinh bản thân khi cần thiết.
Họ thản nhiên ra pháp trường như một Nguyễn Thái Học, một
Phó Đức Chính, những ai và những ai nữa. Kẻ thành công,
người thất bại nhưng người dân Việt yêu nước không ai có thể
quên lời hịch tựa như lời sấm truyền “Nam Quốc Sơn Hà”...
đầy hùng khí như một tuyên ngôn về chủ quyền dân tộc trên
lãnh thổ của mình hay quốc sách tối thượng giữ nước ghi rõ
trong Bình Ngô Đại Cáo hùng lược mà nhân hậu, thể hiện tinh
thần dũng liệt với trái tim cao cả yêu chuộng hòa bình của
người Việt Nam. Từ nghìn trước dân tộc Việt đã là như thế.
Đến nghìn sau, dân tộc Việt sẽ cũng vẫn như thế, không bao
giờ thay đổi.
Đất nước và con người Việt Nam sẽ trường tồn vì chúng ta
thừa hưởng những truyền thống quý báu của tiền nhân: hùng
lược không thua một dân tộc nào mà nhân hậu hơn nhiều dân
tộc khác.
Thời gian trong hơn một thập niên gần đây, không ít học giả
và sử gia ngoại quốc có tầm nhìn xuyên suốt cho rằng Chiến
tranh Việt Nam 1945-1975 không là chiến tranh giành độc lập
cho Việt Nam do người Việt chủ động; ngược lại, đó là một
cuộc chiến mang tính “ý thức hệ”. Trong khi đó thì tất cả
những người cầm súng Việt Nam nghĩ rằng mình chiến đấu vì
độc lập và tự do cho đất nước; vì tình yêu tổ quốc. Nhiều
nhà nghiên cứu và biên soạn Việt Nam chân chính đồng ý với
quan điểm trên đây nhưng cho rằng nếu đó là cuộc chiến “ý
thức hệ” thì các thứ “hệ ý thức” đều do các thế lực lớn mạnh
ngoại bang mang vào... áp đặt trên con người của đất nước
mình, buộc phải theo như một cưỡng chế không chống lại nổi.
Tiếc thay, thế hệ chúng tôi lắm người không hiểu hết sự vận
chuyển của lịch sử thế giới và của đất nước. Hoặc có hiểu
biết nhưng bất lực trước sự vận chuyển đó! Bởi vì những gì
mà đại đa số những người bình thường như chúng tôi đã nghĩ
và đã làm là không tự chúng tôi muốn mà bị buộc phải nghĩ và
phải làm bởi các cấp lãnh đạo và các... lãnh tụ, mặc dù
không ít người trong chúng tôi có thể nghĩ khác hơn. Chính
cấp lãnh đạo và lãnh tụ Việt Nam --theo cách nói của từng
miền-- là những người không đủ tri thức lãnh hội sự vận
chuyển lớn lao này nhưng có đủ... bản lãnh để dẫn dắt chúng
tôi vào cuộc chiến thảm hại như nó đã diễn ra. Nhất là cán,
chính, binh và quần chúng miền Bắc bị thúc bách theo từng
bậc của hệ thống chính trị Đảng bộ CSVN. Đứng trên tất cả là
những lãnh tụ đảng.
Trong giai đoạn lịch sử đó, Việt Nam không có một tầng lớp
lãnh đạo và lãnh tụ thực sự xứng đáng. Và nếu có, những vị
này cũng đã nhanh chóng bị loại ra khỏi quỹ đạo vận hành của
các thế lực cực mạnh của thế giới va chạm nhau vì quyền lợi
của họ. Đã có những lãnh đạo và lãnh tụ tưởng mình đã tạo
lịch sử trong khi vẫn biết, hay không biết, chính những thế
lực này tạo nên họ và cho họ một thế đứng trong chế độ mà
các thế lực này dựng nên. Tất nhiên, trừ thế hệ trẻ trong
nước sinh sau khi chiến tranh chấm dứt, và đa số những người
còn quáng-gà mù mờ nào đó của bên thắng cuộc, nếu là người
VN ở mọi nơi trên địa cầu ai cũng nhận ra những thế lực
khuynh đảo thế giới ở thời điểm đó là những thế lực nào và
thứ “hệ” ý thức mà họ đưa vào... “hấp” cấp lãnh đạo và lãnh
tụ VN để những người này... “thụ” rồi thực hiện trên dải đất
chiến lược của dân tộc Việt Nam là những thứ “hệ” tư tưởng
nào rồi.
Nếu nói rõ ràng hơn, những thế lực --thường được gọi là các
cường quốc mạnh về chính trị, quân bị và kinh tế Đông, Tây,
ở thời điểm đó-- như là Nhật, liên quân Đồng Minh Anh-Hoa
Kỳ-Quốc Dân Đảng Trung Hoa (QDĐ/TH), Liên-bang Xô-viết
(Nga), Đảng Cộng sản Trung Quốc (CSTQ), và thế lực
thực-dân-hầu-tàn là Pháp --đã trở lại Việt Nam sau Đệ II Thế
Chiến. Cuộc chiến từ Mùa Thu năm 1945 trên đất nước Việt Nam
trở đi, được những trí thức chính trị và những sử gia có uy
tín thế giới cho là một cuộc chiến tranh ủy nhiệm [a mandate
war] nếu không nói nôm na là một cuộc đánh mướn [a proxy
war] của lực lượng địa phương cho “Chủ nghĩa Cộng Sản Quốc
tế” (CSQT) đang bành trướng giành đất đai và thị trường, va
chạm mạnh vào sự che chắn quyền lợi lãnh địa và kinh tế của
khối Thế giới Tự do (TGTD-Free World) ở Âu Châu lẫn Á Châu.
Ở khắp nơi. Ở đây chúng tôi không đề cập đến Liên Xô
đã chiếm lãnh thổ của các nước lận cận làm lãnh thổ của mình
và nhuộm đỏ cả Đông Âu sau Thế Chiến Thứ II và tiến sang Á
Châu. Nhiều người gọi là Cộng Sản Quốc tế (CSQT). Một khi
CSQT vào Lục địa Trung Hoa, nhất định sẽ lấn xuống Đông
Dương, Đông Nam Á và mon men ra Nam Thái Bình Dương. Chiến
tranh Đông Dương ở thời điểm đó là một thế chiến thu hẹp
trên phạm trù “ý thức hệ” trong vùng lãnh địa chiến lược
này, quan trọng nhất là Việt Nam. CSTQ thành công và lập
chính phủ trên lục địa rộng lớn này, nhất thiết chiến
tranh vùng đất chiến lược Việt Nam tất sẽ phải diễn ra dữ
dội hơn và bản chất “proxy war” lộ diện rõ ràng hơn. Và nó
đã diễn ra. Đây mới chính là bản chất chính của Chiến tranh
Việt Nam.
Lãnh tụ và lãnh đạo Việt Nam của “cuộc chiến ủy nhiệm” này
là những ai theo các dấu mốc thời gian; và, chế độ họ dựng
nên theo các quan thầy Cộng sản và khối Tự do trên các miền
đất nước Việt Nam diễn tiến như thế nào? Xin viết như một
tham luận hay như một bài luận sử ngắn của một chứng nhân
với ít kinh nghiệm và nhận định riêng.